Cha ơi!" (Rm 8,15). Trong lời nguyện mở đầu thánh lễ Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội tuyên xưng: Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng đã sai Ngôi Lời Sự Thật đến trong thế gian và Chúa Thánh Thần, là Đấng thánh hoá để mặc khải cho loài người mầu nhiệm kỳ diệu của Ngài. Thực vậy
Suy niệm Tin mừng lễ Chúa Ba Ngôi. admingdbn Tháng Năm 29, 2021 Suy niệm Leave a comment 79 Views. CHÚA BA NGÔI MỘT TRỜI YÊU MẾN. Tình yêu không bao giờ cô độc 1 mình. Đã yêu thì luôn có liên hệ: Yêu ai, yêu cái gì. Thế nên, Thiên Chúa là tình yêu tràn đầy trong mối liên hệ tình
8595.Lễ Thánh Gia-năm C. 8596.LỄ GIÁNG SINH. 8597.Chúa Nhật 4 mùa vọng C. 8890.Suy niệm tuần sau lễ Hiển Linh. Lễ Chúa Ba Ngôi-C *ĐGM Bart Nguyễn Sơn Lâm *Lm Giuse Đinh Lập Liễm * Noel Quesson *Nhiều tác giả: 68 bài
Các bài Suy niệm lễ Chúa Ba Ngôi năm C Lời Chúa: Cn 8,22-31; Rm 5,1-5; Ga 16,12-15 (x.Bài giảng lễ Chúa Ba Ngôi năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô). Kinh Thánh Tân ước mặc khải Ba Ngôi: sự hợp nhất của Ba Ngôi trong sứ mạng của ngôi thứ hai - Ngôi Con : Chúa Giêsu chịu phép rửa
Suy niệm: Bùng cháy một cách triệt để Giáo Lý Cho Lễ Sinh; Gia Đình; Quới Chức; Tu Sĩ; Chủng Sinh; Loan Báo Tin Mừng; Ơn Gọi; Giáo Sĩ; Suy Niệm. Suy Niệm Chúa Nhật; Suy Niệm Hằng Ngày; Suy Niệm của Lm. Dominic Minh Anh; Suy Niệm Với Thánh Vịnh; Dòng Tu. Dòng Kitô Vua. Giới
Dẫn tới sự thật toàn vẹn (Lễ Chúa Ba Ngôi - năm C- Suy niêm Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.) 11 Tháng Sáu, 2022 Lời Chúa Cho Ngày Sống 404 Lượt xem Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. 12 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : "Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em.
afz6d. Các bài suy niệm LỄ CHÚA BA NGÔI – Năm CLời Chúa Cn 8,22-31; Rm 5,1-5; Ga 16,12-15 MỤC LỤC1. Chúa Ba Ngôi2. Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời chúng ta3. Mầu nhiệm tình yêu – ĐTGM Ngô Quang Kiệt4. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi – R. Veritas5. Toàn bộ sự thật6. Mọi sự của Cha là của Thầy7. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà8. Ba Ngôi huyền nhiệm tình yêu9. Thiên Chúa san sẻ với chúng ta – Achille Degeest10. Tình yêu hiệp nhất11. Nhìn thấy Thiên Chúa – McCarthy12. Mầu nhiệm đức tin13. Chúa Ba Ngôi14. Mầu nhiệm15. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm16. Suy niệm của JKN17. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái18. Thiên Chúa Ba Ngôi19. Sống đời sống Thiên Chúa20. Chú giải của Noel Quesson21. Chú giải của Fiches Dominicales22. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt1. Chúa Ba NgôiMầu nhiệm Chúa Ba Ngôi muôn đời vẫn là một mầu nhiệm cao vời nhất. Vì Chúa Ba Ngôi không phải là kết quả của việc con người suy luận. Sở dĩ chúng ta biết được là vì Thiên Chúa đã tỏ lộ. Thiên Chúa đã mạc khải, đã nói với con người bằng chính ngôn ngữ nhân loại. Ngôn ngữ đó không đủ khả năng diễn đạt tất cả những thực tại thuộc lãnh vực thần linh. Mầu nhiệm chỉ được mạc khải theo khả năng lĩnh hội của con người trong tương quan với thời gian và không mạc khải về Ngôi Hai, Thiên Chúa đã chuẩn bị hằng mấy mươi thế kỷ bằng việc kén chọn cho mình một dân tộc. Qua dân tộc đó, Ngài biểu dương sức mạnh và tình thương để họ thấy rằng trên trời dưới đất, chính Ngài là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Chính Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất, mọi người phải tôn thờ và quy phục. Không có thần linh nào vượt trổi trên Ngài. Ngài là Đấng toàn năng cao cả, mọi giới răn và huấn lệnh của Ngài đem lại sự sống và sức mạnh cho những ai tuân giữ. Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài để hướng dẫn chăm sóc bênh vực và nhất là yêu thương họ. Hình ảnh áng mây cột lửa nhà tạm… nói lên sự hiện diện của Ngài. Ngài yêu thương họ bằng tình phụ tử chiến đấu bên cạnh họ, nuôi dưỡng họ bằng mật ngọt và bằng lúa Chúa là Đấng vô hình không ai có thể trông thấy Ngài trừ khi là Ngôi Con tự cung lòng Chúa Cha mà đến, và Người đã đến ở giữa chúng ta. Mầu nhiệm ngôi hiệp chứng tỏ con người có khả năng tuân nhận và thông hiệp với Thiên Chúa. Ngôi Hai làm người đê con người trở thành con Thiên Chúa. Chúa Cha và Chúa Con là một, Chúa Cha yêu mến Chúa Con và Chúa Con yêu mến Chúa Cha. Cả hai ở trong tình yêu và tình yêu ấy chính là Chúa Thánh Thần. Tình yêu liên kết ngôi Cha ngôi Con nên một thân thể. Đến giờ Chúa Giêsu phải về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài không để các môn đệ mồ côi. Ngài sẽ xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho các ông. Ta đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi thì Đấng yên ủi sẽ không đến cùng các con, song nếu Ta đi, thì Ta sẽ sai Người đến. Chúa Thánh Thần đã đến trong ngày lễ Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa. Các ông đã lấy cái chết để làm chứng cho niềm tin nơi Thiên Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần. Chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép chúa Luise ngày kia bị một nữ tỳ trách móc. Không cầm nổi tức giận, công chúa bảo Ngươi hãy nhớ, ta là con của đức vua. Nhưng người nữ tỳ trả lời Còn tôi, tôi là con Thiên Chúa. Công chúa hiểu và về sau đã trở thành một vị nữ tu dòng bí tích Rửa Tội mọi người chúng ta đều được đóng ấn hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa đến cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Hình anh đó phải lớn lên, lớn lên mãi, để mỗi ngày chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự thánh thiện. Yêu Chúa là tuân giữ những điều Chúa dạy. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời chúng taMầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhất của Ki tô giáo, vì mầu nhiệm này thuộc về đời sống thâm sâu của bản tính Thiên Chúa, mà trí khôn con người không thể nào hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta tin là vì chính Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. Tuy nhiên câu hỏi chúng ta cùng chia sẻ hôm nay, đó là Ba Ngôi Thiên Chúa nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta?Ngôi thứ nhất là Cha của chúng thế, trong các tôn giáo không có một vị thần minh nào đã dám mạc khải mình như thế. Hẳn chúng ta phải hãnh diện vì có được một Thiên Chúa gần gũi chúng ta như một người cha. Và người cha ấy lại là một người cha toàn năng, như thánh vịnh 115 đã diễn tả Cha chúng ta ở trên trời và Ngài làm được tất cả những gì Ngài muốn. Đồng thời, Ngài còn là một người cha đầy lòng nhân từ và hay thương xót. Ngài biết chúng ta thiếu thốn và luôn ra tay cứu giúp. Có lẽ nhiều người vẫn chưa cảm nghiệm được hết tình phụ tử này. Đa số trong chúng ta mới chỉ biết nhìn vào những hoàn cản phiến diện bên ngoài, để rồi nghi ngờ tình Chúa yêu thương Tại sao chúng ta luôn ăn ngay ở lành mà vẫn cứ bị thiệt thòi và thất bại? Trong khi đó, kẻ ác thì trái lại, cuộc đời họ cứ lên hương như diều gặp gió? Người lành như thua chạy và chân lý như bị rút vào bóng tối?Trước hết, chúng ta tin rằng Thiên Chúa là tình yêu. Ngài muốn biểu lộ tình yêu ấy cho mọi người, người lành cũng như kẻ dữ. Nhưng tới một lúc nào đó, sự công bằng của Ngài sẽ được thể hiện và Ngài sẽ xét xử tuỳ theo công việc chúng ta đã với những thử thách đang gặp, phải chăng Chúa muốn chúng ta kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, bởi vì kiên trì trong gian truân sẽ dẫn đưa chúng ta tời hạnh phúc. Hơn thế nữa, rất có thể Chúa đang thử thách để xem chúng ta có bằng lòng vâng phục hay không, bởi vì vâng lời thì trọng hơn của lễ. Đồng thời để xem đức tin của chúng ta đã thực sự trưởng thành hay chưa? Một đức tin trưởng thành sẽ không bao giờ nao múng trước mọi nghịch cảnh. Một người cha đích thực thì phải biết uốn nắn con cái, chứ không được muông chiều và làm cho chúng hư đi Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi…Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước. Giữa những hoàn cảnh đen tối, ông không hề oán trách, nhưng một mức phó thác cho Chúa. Cách giải quyết của ông là ở mọi nơi và trong mọi lúc phải luôn tin tưởng và tình thương của Chúa. Sau khi đã được tôi luyện trong đau khổ như thế, chắc chắn chúng ta sẽ xứng đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời mà Ngài đã hứa đến, Ngôi thứ Hai là Đấng Cứu độ chúng khi nguyên tổ phạm tội, thì tất cả chúng ta đều phải sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Không ai có thể giải thoát chúng ta, bởi vì tội là sự vấp phạm đến Thiên Chúa, nên chỉ một mình Ngài mới có thể giải thoát chúng ta. Và Thiên Chúa đã thực hiện điều ấy. Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta chính là Ngôi Hai nhập thể, như lời thánh Gioan đã xác quyết Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban chính Con Một của mình cho nhân loại…Ngài đã chịu chết trên thập giá để cứu độ chúng ta và tỏ cho chúng ta thấy một tình yêu tuyệt vời, đó là tình yêu của một người dám hy sinh mạng sống vình vì bạn cùng, Ngôi thứ ba là Đấng an ủi chúng rằng trong cuộc sống, có những lúc chúng ta chán nản, không biết phải cầu xin thế nào cho đẹp lòng Chúa. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta hãy nhờ Chúa Thánh Thần mà cầu nguyện. Ngài nắm giữ một vai trò quan trọng và cần thiết trong tâm hồn chúng ta. Ngài sẽ thêm sức, soi sáng và chỉ cho chúng ta cách thức cầu nguyện. Ngài nhắc nhở cho chúng ta biết những nhu cầu cân thiết để kêu xin. Chính Ngài sẽ làm cho tâm hồn chúng ta được lắng đọng và bình an, để rồi chúng ta sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Ngài thấu suốt mọi tâm tư nguyện vọng và Ngài luôn ra tay nâng đỡ, để rồi chúng ta tìm lại được niềm an ủi và khích lệ, vui mừng và hạnh đó, hãy mở rộng cõi lòng để Chúa Thánh Thần ngự đến và biến đổi tâm hồn chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi và đừng bao giờ làm buồn lòng các Mầu nhiệm tình yêu – ĐTGM Ngô Quang KiệtHôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó. Nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình là tình yêu hiệp thông. Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết với nhau trong tình yêu. Tình yêu đó khiến cho Ba Ngôi trở nên một. Đây là điều Chúa Giêsu nhiều lần khẳng định “Ta và Cha Ta là một”; “Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha” Ga 17,21. Nên một trong tư tưởng. Nên một trong hành động. Nên Chúa Giêsu luôn làm theo thánh ý Chúa Cha “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” Ga 15,10. Và Đức Chúa Thánh Thần cũng không làm gì ngoài ý muốn của Chúa Giêsu như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”. Sự hiệp thông trọn vẹn đến nỗi một Ngôi chính là biểu hiện của cả Ba Ngôi như Chúa Giêsu cho biết “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” Ga 14,9. Thật là một sự kết hiệp trọn là tình yêu dâng hiến. Chúa Cha có gì thì ban cho Chúa Con tất cả. Như lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”. Chúa Cha ban cho Chúa Con cả chính bản thân mình nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha. Đến nỗi ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha cf. Ga 14,9. Ngược lại, nhận được gì thì Chúa Con dâng lại cho Chúa Cha. Dâng cả bản thân. Dâng cả ý muốn. Dâng cả mạng sống. Khi hấp hối trong vườn Giệtsimani, Chúa Giêsu sợ hãi cái chết theo thánh ý Chúa Cha. Người đã tha thiết cầu nguyện “Áp ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” Mc 14,36. Quả thật tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa là một tình yêu dâng hiến hoàn toàn. Dâng hiến đến không còn giữ gì cho bản thân là tình yêu tác sinh. Sự dâng hiến không làm cho tình yêu nghèo nàn đi. Trái lại càng làm cho tình yêu thêm sung mãn. Càng cho đi lại càng thêm phong phú. Càng nhận lãnh lại càng thêm năng lực cho đi. Tình yêu đó lan toả đến cả muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Tình yêu tràn trề sung mãn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa tuôn đổ xuống muôn loài, làm cho muôn loài được hiện hữu, được sống, được tham dự vào nguồn tình yêu vô biên để được hạnh phúc vĩnh ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. ĐIỂM ĐỜI SỐNG1. Về lý thuyết, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thật khó hiểu. Nhưng thực ra Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rất cụ thể trong đời sống ta. Bạn hiểu điều này thế nào?2. Ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Ta phải sống thế nào để là hình ảnh trung thực của Người?3. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch hạnh phúc. Muốn được hạnh phúc ta phải kết hiệp với nguồn mạch hạnh phúc này. Nhưng để kết hiệp với Chúa Ba Ngôi, ta phải làm gì?4. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi – R. VeritasTrích trong Mỗi Ngày Một Tin Vui’“Chúc tụng Chúa Cha,Chúa Con và Chúa Thánh Thần ,Vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta”.Đó là mở đầu thánh lễ mừng kính Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô, nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng đã không giải thích tại sao Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn từ biệt dài trong bữa Tiệc Ly về sự hiện diện và tác động của từng ngôi Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa Ba Ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng đã không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến, chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành.“Ta và Cha Ta, Chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữ giới răn Ta truyền thì Chúng ta sẽ đến ngự trong người đó”. Trong Phúc âm thánh Gioan được dùng trong thánh lễ kính Chúa Trời Ba Ngôi là những lời của Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ như sau “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói như vậy và Người sẽ dạy bảo các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người đã lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói là Người sẽ lãnh nhận nơi Thầy mà loan truyền cho các con”.Đó là những lời trích từ bài diễn văn dài được ghi lại nơi ba chương của Phúc âm thánh Gioan, từ chương XIV-XVI, trong đó mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu nhắc đến mà không giải thích cho các tông đồ. Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa mà là sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa nhưng không thể nào biết trọn được việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày nay. Trí khôn con người hữu hạn làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng, nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ như trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển.“Thầy con nhiều điều phải nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, Ngài sẽ đưa các con vào trong trọn cả sự thật”. Mỗi ngày chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm bao la của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi không bao giờ ngừng, cả cho đến khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời ngày chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em xung quanh như chính Thiên Chúa được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em xung quanh và phục vụ họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình xin Thiên Chúa Ba Ngôi Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu thánh giá chúng ta mang lấy hy sinh mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai Toàn bộ sự thậtTrích trong Manna’Suy Niệm“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.”Đức Giêsu khi sắp về với Cha, đã chấp nhận giới hạn của các môn đệ. Ngài chưa nói hết được những điều Ngài muốn nói, nhưng Ngài không muốn ép họ phải cố hiểu. Cần có thời gian, và nhất là cần Thánh Thần…Đức Giêsu chấp nhận ra đi khi việc huấn luyện còn dang dở. Ngài chấp nhận mình không phải là vị thầy duy nhất Sau này, Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều Ga 14,26.Ngài cũng chẳng phải là Đấng Bảo Trợ duy nhất vì còn một Đấng Bảo Trợ khác đến sau Ngài x. Ga 14,16.Ngài đã vén mở cho các môn đệ thấy sự thật, sự thật về Cha, về bản thân mình và về con người. Nhưng Ngài biết rằng cần có Thánh Thần từ từ dẫn dắt các môn đệ mới hiểu thấu và đi vào toàn bộ sự lợi ích của họ, Đức Giêsu sẵn sàng ra đi x. Ga 16,7, để nhường chỗ cho Đấng Cha và Ngài sai Giêsu chẳng tìm mình, và Thánh Thần cũng Thần chỉ có sứ mạng là đưa con người đến với Cha và Con là Đức Giêsu. Ngài chẳng tìm vinh quang cho mình, nhưng chỉ tìm tôn vinh và làm chứng cho Đức cũng chẳng tìm mình. Cha chẳng giữ gì làm của riêng.“Mọi sự Cha có đều là của Thầy” Cha là nguồn mạch luôn trào dâng qua Con. Con là Con vì đón nhận tất cả từ yêu liên kết Cha và Con là Thánh Thần,Khi chiêm ngắm thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy đó là một cộng đoàn lý tưởng. Mỗi ngôi vị đều sống cho hai ngôi vị thương và hiệp thông với nhau đòi từ bỏ. Nhưng từ bỏ lại làm cho mỗi ngôi vị trọn vẹn là mình, và sống trong hạnh phúc viên Chúa của Kitô giáo là một cộng đoàn yêu thương, nhưng thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi lại không khép giới ấy vươn ra ngoài mình, để cho hạnh phúc tuôn đổ trên toàn bộ công trình sáng yêu loài người đến độ sai Con Một làm người. Con yêu loài người đến độ dám sống và chết cho họ. Thánh Thần yêu loài người đến độ luôn ở bên để ủi an nâng đỡ. Cả Ba Ngôi cùng nhau lo cho loài mơ lớn nhất của Ba Ngôi là đưa cả nhân loại đi vào thế giới thần linh của mình, để mỗi người được hưởng hạnh phúc làm con trong Chúa Chúa Ba Ngôi là tình yêu mở ra, chia sẻ, mời yêu đích thực bao giờ cũng khiêm hạ đợi chờ. Chúng ta tự hỏi mình có sẵn sàng mở ra để Chúa đi vào thế giới của mình và để mình đi vào thế giới của Chúa không?Gợi Ý Chia SẻCha là Đấng Sáng Tạo, Con là Đấng Cứu Độ, Thánh Thần là Đấng đem lại sự sống, sự canh tân, sự hiệp nhất. Bạn là hình ảnh Chúa Ba Ngôi, bạn thấy mình giống Ngài ở điểm nào?Thế giới hôm nay bị đổ vỡ vì lòng ích kỷ của nhiều người, bị xâu xé giữa tôi và chúng ta. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi giúp gì để giải quyết vấn đề trên?Cầu NguyệnGiữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé Mọi sự của Cha là của ThầyTrích trong Manna’Suy NiệmMỗi ngày chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần, chúng ta nhắc đến Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần. Chúng ta muốn ghi dấu của Ba Ngôi trên thân thể, và trên mọi hoạt động của ta, hay đúng hơn, chính Ba Ngôi đã không ngừng ghi dấu trên cuộc đời ta và trong suốt dòng lịch nhiệm Một Thiên Chúa Duy Nhất trong Ba Ngôi vị là mầu nhiệm được Đức Giêsu mạc khải cho là Đấng yêu Con và hằng sinh ra Con. Con là người được yêu và được Cha sai vào thế giới. Thánh Thần là tình yêu, nối kết Cha và vậy Thiên Chúa của Kitô giáo không phải là một ngôi vị đơn độc, nhưng là Ba Ngôi hiệp thông chặt chẽ với Ngôi chia sẻ cho nhau mọi sự mình có “Mọi sự Cha có đều là của Thầy” Ga 16,15.Ba Ngôi cùng nhau hành động trong sự hoà hợp. Thánh Thần không tự mình mà nói nhưng chỉ nhắc lại và đào sâu lời Đức Giêsu, giống như Đức Giêsu đã chẳng tự mình mà nói nhưng chỉ nói những gì mình nghe được từ Thần sẽ tôn vinh Đức Giêsu như Đức Giêsu đã suốt đời tôn vinh sống là sống với, sống cho, sống nhờ thì ta có thể gặp được mẫu mực sống tuyệt vời nơi Ba Ngôi Thiên Ngôi đều không tìm mình, chỉ sống cho Ngôi khác, và từ đó tạo ra khuôn mặt riêng của mình. Thiên Chúa vừa là một, vừa là ba. Hội Thánh cũng vừa duy nhất, vừa đa dạng. Mười hai tông đồ, bốn sách Tin Mừng, hai kinh Lạy Cha… Để sự duy nhất đừng trở thành độc khối nghèo nàn, để sự đa dạng đừng trở thành cớ chia rẽ, cần có sự hiệp thông sâu xa trong Hội sống của Ba Ngôi là mẫu mực cho mọi tổ chức của con người trên trần lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta chiêm ngắm sự hiện diện của Ba Ngôi ở nơi ta.“Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” Ga 14,23, “Thánh Thần ở lại bên cạnh anh em và sẽ ở trong anh em” Ga 14,17.Đây là tin mừng quá đỗi lớn lao Thiên Chúa siêu việt xa thẳm lại ở rất gần ta, chỉ cần quay vào nội tâm, là ta gặp được hữu là người mang trời cao, mang thiên quốc trong mảnh đời yếu đuối của mình. Hãy cung kính trước sự hiện diện đó, và để cho Tình Yêu Ba Ngôi tự do hoạt động nơi bạn, và qua bạn mà lan đến toàn thế Ý Chia Sẻ“Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai.” Bạn có kinh nghiệm gì về việc sống hết mình cho người khác, mà vẫn không đánh mất chính mình?Một em bé nói “Thiên Chúa là một người cha yêu con cái như một người mẹ.” Đâu là hình ảnh của bạn về Thiên Chúa? Có khi nào bạn cảm nghiệm được Ngài yêu bạn không?Cầu NguyệnGiữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần NgàXÂY DỰNG GIA ĐÌNH TÍN HỮUTHEO KIỂU MẪU “GIA ĐÌNH BA NGÔI”Mầu nhiệm Ba Ngôi tuy rất cao siêu nhưng không phải là xa vời viển vông, trái lại đây là một mầu nhiệm rất thiết thân, rất gắn bó với đời sống người con cái Chúa và giúp cho đời sống con người trở nên tốt đẹp và hạnh phúc hơn.“Gia Đình Thiên Chúa Ba Ngôi” Ba nên mộtTrước hết, chúng ta hãy chiêm ngắm “Gia Đình” Ba Ngôi. Nói một cách bình dân thì “Gia Đình” nầy có ba nhân khẩu. Còn nói theo giáo lý và thần học thì “Gia Đình” nầy có ba Vị hay ba Ngôi riêng biệt. Vị thứ nhất là Chúa Cha, Vị thứ hai là Chúa Con, Vị thứ ba là Chúa Thánh Thần. Ba Vị yêu thương nhau vô hạn và thông hiệp với nhau trong tình yêu bền chặt đến nổi ba Vị không còn là ba mà nên một Chúa Giêsu khẳng định chân lý nầy khi Ngài phán “Thầy với Chúa Cha là một” Ga 10,30. Vì thế, “ai thấy Thầy là đã xem thấy Chúa Cha” và Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra kinh Tin Kính.Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn nói rõ hơn cho chúng ta biết tình hiệp thông khắng khít giữa Ngài với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần “Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy”Ga 16,15. “Mọi sự của Cha cũng là của Con và những gì của Con cũng là của Cha”.Ngoài ra, Chúa Giêsu còn dạy cho chúng ta biết “Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ga 3,35. Rồi “Con yêu Cha nên Con làm mọi sự đúng như Chúa Cha đã truyền dạy” Ga 14, 31 cho dù phải “vâng lời Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết và chết trên thập giá”Phi 2,8.Như thế, trong “Gia Đình” nầy, tình yêu thương đã liên kết ba Vị nên một với nhau, thế nên Hội Thánh dạy rằng dù có ba Ngôi, nhưng chỉ có một đình Ađam-Evà hai nên mộtThế rồi, ba Ngôi Thiên Chúa đã lấy “Gia đình” Ngài làm mẫu để dựng nên gia đình thứ hai, đó là gia đình Ađam-Evà. “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” St 1,27 và đôi vợ chồng đầu tiên nầy tuy là gồm hai con người nhưng cũng đã trở nên một. Để trình bày tính cách hai nên một’ nầy, kinh thánh đã diễn tả rất thi vị và hình tượng như sau Sau khi tạo dựng Ađam, Thiên Chúa khiến cho ông ngủ say rồi rút xương sườn của ông mà dựng nên E-và rồi dẫn đến với ông. Ađam nói “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi. Bởi đó, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” St 2, 18-23.Vì được dựng nên theo đúng khuôn mẫu “Gia Đình” Thiên Chúa nên gia đình Ađam-Evà nói riêng cũng như gia đình tín hữu nói chung cũng mang những đặc tính giống như “Gia Đình” của Thiên Chúa là hiệp thông nên một trong yêu thương. Trong gia đình, người cha và người mẹ không còn là hai mà là một. Rồi hoa trái của tình yêu vợ chồng là con cái cùng có cùng chung huyết nhục với cha mẹ và được cha mẹ yêu thương như chính bản thân mình. Từ đây, cha, mẹ và con không còn là ba nhưng chỉ là một. Do đó, gia đình nhân loại đúng là họa ảnh của “Gia Đình” Ba Ngôi Thiên đình Hội Thánh nhiều nên mộtTiếp theo, Thiên Chúa cũng lấy “Gia Đình” Ba Ngôi làm mẫu để dựng nên gia đình thứ ba, rộng lớn hơn nhiều. Ta gọi đây là đại Gia Đình Hội thực hiện dự án nầy, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích rửa tội để tháp nhập mọi tín hữu vào thân mình Ngài như những cành nho được tháp vào thân nho, như bàn tay được tháp vào cơ thể. Thánh Phao-lô dạy “Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô. Ga 3, 27-28. Thế là cả hàng tỉ người tin Chúa và được thanh tẩy trong Đức Giêsu Kitô không còn là nhiều nhưng đã hiệp thông nên một nhiệm thể Chúa Giêsu lại còn dùng bí tích Thánh Thể để tăng cường sự hiệp thông nầy nên mật thiết hơn. Nhờ hiệp thông với Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong thánh lễ, chúng ta được trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu và nên một với Giêsu muốn rằng sự hiệp thông giữa những người con cái Chúa phải keo sơn như sự hiệp thông giữa ba Ngôi. Thế nên, trước khi lìa xa các môn đệ, Ngài thành khẩn cầu xin cùng Chúa Cha “Lạy Cha, xin cho họ nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha” Ga 17, 21.Trong ngày lễ Chúa ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho mỗi người chúng ta luôn nhìn ngắm và nhận “Gia Đình Ba Ngôi Thiên Chúa” làm kiểu mẫu lý tưởng để xây dựng gia đình chúng ta, xây dựng giáo xứ chúng ta luôn sống trong yêu thương và hiệp nhất bền chặt như “Gia Đình Thiên Chúa Ba Ngôi”, nhờ đó mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta sẽ là một hình ảnh sống động về Thiên Chúa Ba Ngôi như lời nhắn nhủ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư mục vụ gửi cộng đoàn dân Chúa năm 2002 số 6“Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa”8. Ba Ngôi huyền nhiệm tình yêuSuy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy TuyềnTrong thiên nhiên và vạn vật còn có biết bao nhiêu những điều kỳ thú, bí ẩn mà với trí óc hạn hẹp của con người vẫn chưa khám phá hết được những bí ẩn đang tổn tại trong thiên nhiên. Con người chỉ biết thinh lặng và kính phục trước những huyền nhiệm vẫn diễn ra trong thế giới chung quanh. Thực vậy, mỗi khi đứng trước một vấn đề nan giải, khó hiểu và vượt quá trí tưởng tượng như thế, chúng ta thường đóng khung vấn đề bằng một từ gọi là huyền nhiệm. Huyền nhiệm hay mầu nhiệm thường là vấn đề không kiểm chứng được bằng khoa học mà chỉ bằng niềm tin. Thế nên, có rất nhiều mầu nhiệm trong đạo được đóng khung bằng mầu nhiệm và đòi buộc các tín hữu phải tin, điều đó cũng đúng. Vì đức tin của chúng ta không dựa trên khoa học hay cảm tính mà dựa trên mạc khải. Chính Chúa đã mạc khải chính mình qua giòng thời gian. Qua các tổ phụ, các tiên tri và thời sau hết qua Con Một chí ái là Đức Giêsu Kytô. Chúng ta tin vì chính Chúa đã nói với chúng ta. Chúng ta tin vì Chúa là Đấng chân thật và lời Người thì không bao giờ sai lầm. Nhưng, có bao giờ chúng ta tự hỏi Chúa đã mạc khải điều đó để làm gì? Lời mạc khải của Chúa có liên hệ gì với đời sống chúng ta hay không? Đó mới là điều quan yếu mà chúng ta cần bàn hỏi để hiểu và để sống những điều Chúa muốn nơi chúng nay lễ kính Chúa Ba Ngôi. Đây là một mầu nhiệm. Một mầu nhiệm mà chắc chắn Thiên Chúa đã mạc khải không nhằm mục đích cho chúng ta đóng khung để thờ, để “kính nhi viễn chi” mà là để chúng ta sống theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thế nên, mừng lễ Chúa Ba Ngôi không phải là dịp để chúng ta đưa ra những luận điệu, chứng cứ để chứng minh về một Thiên Chúa Ba Ngôi mà là để chúng ta chiêm ngắm về căn tính, về bản chất của Ngài để bắt chước, noi theo. Vì chứng cứ về Ba Ngôi Thiên Chúa đã được Ngôi Hai Thiên Chúa nói với chúng ta bằng cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Gioan tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa thật ngắn ngọn và đầy đủ Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì luôn trao ban sự sống, luôn hy sinh chính mình và luôn giúp nhau thăng tiến. Chúa Giêsu đã nói về Ba Ngôi Thiên Chúa với cách biểu lộ tình yêu như Cha trao ban sự sống cho nhân loại, qua công trình tạo dựng vạn vật và đỉnh cao là tạo dựng con người giống hình ảnh của Con đã hy sinh chính mình để cứu chuộc nhân loại bằng việc tự nguyện nộp mình chịu chết để đền thay tội lỗi nhân Thánh Thần là Đấng thánh hoá con người nên nghĩa tử của Chúa và luôn tác động để con người hoàn thiện chính mình mỗi ngày nên tốt đẹp vậy, sự tỏ bầy mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là tỏ bày tình yêu. Tình yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Chính Ngài đã làm tất cả vì yêu chúng ta và cũng đòi buộc chúng ta phải noi gương Ngài mà sống để yêu thương nhau. Thiên Chúa không đòi chúng ta phải bù đắp tình yêu cho Ngài, vì Ngài đã tròn đầy. Ngài không cần chúng ta thêm gì cho Ngài. Ngài chỉ cần chúng ta mặc lấy tình yêu đó để đối xử tốt với nhau trong cuộc đời hôm giới hôm nay đang thiếu vắng rất nhiều về tình yêu như thế. Ngay tại gia đình, nhiều cha mẹ đã đang tâm chối bỏ quyền sống nơi các thai nhi vô tội. Nhiều đôi vợ chồng tan vỡ vì thiếu sự hy sinh và lòng bao dung tha thứ cho nhau. Nhiều cuộc tình đã đau khổ vì thiếu sự bổ túc và tôn trọng lẫn nhau, mà chỉ tìm đến với nhau để khai thác tiền bạc và thú vui thể ngoài xã hội lại càng thiếu vắng nhiều hơn. Khoa học tiến bộ nhưng nguy cơ giết người hàng loạt luôn là mối lo cho toàn thể nhân loại. Vũ khí hạt nhân và các chất hoá học độc hại luôn bị người ta dùng để kiếm tiền và củng cố quyền lực. Mới đây ở Việt Nam đã phát hiện ra hàng loạt các đồ dùng mỹ phẩm và thức ăn có chất độc hại gây ung thư như ở trong son môi, trong kem đánh răng, trong nước tương, trong bột nêm, bát phở và trên các loại hoa quả tươi xanh. Xem ra nhân loại hôm nay chỉ cần tiền và quyền bính, còn các giá trị đạo đức nhân văn chỉ là những trang sách được mở ra ở học đường nhưng không ứng dụng ở trừơng đời. Xã hội càng văn minh con người càng thiếu hy sinh cho nhau. Thế giới quá quen với cụm từ “mac ke no”, tất cả chỉ lo cho bản thân mình, lo hửơng thụ và tìm kiếm danh lợi thú cho bản một thế giới mà các giá trị đạo đức đã bị sự gian ác và ích kỷ làm đảo lộn như thế, liệu người kytô hữu có dám lội ngược dòng để sống đúng với đòi hỏi của tình yêu hay không? Chúa đòi chúng ta yêu người yêu đời nhưng cuộc đời có quá nhiều người gian dối, bất trung và phản bội liệu rằng chúng ta có dám sống chứng nhân cho tình yêu hay không?Chính Chúa đã sống điều đó. Cho dù con người có phản bội, bất trung Chúa vẫn trung thành với tình yêu của mình. Cho dù con người đã cố tình sống xa tình Chúa, Chúa vẫn tìm muôn nghìn cách để cứu chuộc con người. Chúa vẫn nhẫn nại, từ bi và rất mực khoan nhân. Cho dù con người có ngỗ nghịch phạm thượng chối bỏ Thiên Chúa, chống đối lại Chúa, Chúa vẫn cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người xin Chúa là tình yêu giúp cho mỗi người chúng ta biết sống yêu như Thiên Chúa đã yêu, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ cuộc sống, cũng như luôn quảng đại giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người hơn. Thiên Chúa san sẻ với chúng ta – Achille DegeestTrích trong Lương Thực Ngày Chúa Nhật’Nhờ tác động Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đang sống với chúng ta. Sau khi lãnh bí tích thanh tẩy, ước vọng thầm kín sâu sắc nhất của chúng ta là vươn lên khỏi tầm cỡ mình trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng làm thế nào để gặp Chúa? Bí tích thanh tẩy tạo ra trong chúng ta một bản thể mới, ở ngoài sự hiểu biết thông thường. Đức tin cho biết, chúng ta nhờ Thần Khí mà được kết hợp với Đức Kitô hằng sống. Chúa Thánh Thần là nguồn gốc bản thể hữu hình của Đức Giêsu. Do tác động Chúa Ngôi Ba, bản thể ấy trở nên Thiên Chúa mặc lấy tính loài người. Chúa Thánh Thần cũng là nguồn gốc bản thể siêu hình của chúng ta. Do tác động Chúa Ngôi Ba, bản thể ấy trở thành con người được tham dự vào tính Thiên Chúa. Tác động Chúa Thánh Thần hằng có, hằng diễn ra trong thế giới. Nhờ vậy, đối với chúng ta, cuộc gặp gỡ Đức Giêsu không chỉ trong một lúc một nơi để có thể nhớ lấy ngày tháng, địa điểm. Cách sâu sắc hơn, Chúa là sự hiện diện sống động hằng có, làm biến đổi bản thể bên trong chúng ta. Chúa Thánh Thần mặc khải cho chúng ta bắt đầu hiểu biết Đức Giêsu Kitô, hơn nữa cho thấy Người bắt đầu làm cho chúng ta sống. Tất cả sự thật là thế. Nhiều người cho rằng người ta đã gặp hoặc đang gặp Đức Giêsu trong chốc lát, theo họ Chúa là Thầy có lời giảng dạy sáng như bạch nhật, nắm vững một phần chân lý. Đối với Kitô hữu đã lãnh ơn Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu là Thầy nắm vững tất cả chân lý, trong Người chúng ta không bao giờ hết khám phá điều gì là tốt lành cho tâm trí mình, với Người chúng ta luôn luôn trên đường đến với Thiên Chúa. Như vậy chúng ta không những có thể gặp Đức Giêsu trong hiện tại, hơn nữa Người đang ngự trong chúng ta. Hai câu sau đây cần được đào sâu ý nghĩa1 Người sẽ tôn vinh này có thể hiểu theo nghĩa Chúa Thánh Thần mở rộng tâm hồn chúng ta nghênh đón Đức Kitô hằng sống và đích thật. Theo tầm hiểu biết của nhân loại, Đức Giêsu là một sự kiện lịch sử, chung cục người ta hiểu biết rất ít về Chúa. Trong chiều sâu đức tin, chúng ta nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúng ta nhìn nhận Chúa theo đúng tước vị Con Người, đó chính là niềm vinh hiển của Chúa, và cũng là công trình Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta. Một nhận xét sơ lược Chúa Ngôi Ba dẫn chúng ta ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của những kiến thức vật chất và tự nhiên của chúng ta, nếu không tâm trí chúng ta như bị giam hãm trong một lao Để thông báo cho các ta cần chú ý đến sự thật này, một sự thật loài người chẳng thể ý niệm Thiên Chúa san sẻ với chúng ta. Vì tin vào Đức Giêsu Kitô, vì nghênh tiếp Con Thiên Chúa, vì tuân phục những đòi hỏi của Thần Khí, chúng ta được vinh dự Thiên Chúa san sẻ cho chúng ta. Đức Giêsu, Người-Chúa, là khởi điểm cho hoạt động thiết yếu sâu sắc nhất của chúng ta. Chúng ta được mặc khải bên trong để nhận biết mình được tham dự thần tính trong Đức Giêsu. Đó là ý nghĩa đích thật của từ nếp sống mới thánh Phaolô thường dùng. Đó không phải là một nhãn hiệu, cũng không phải là một khẩu hiệu. Nếp sống mới có thật tùy theo mức độ chúng ta nhờ nếp sống mới trở nên giống Đức Kitô nhiều hay Tình yêu hiệp nhấtTrích trong Niềm Vui Chia Sẻ’Một linh mục ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông khoe rằng “tôi không chấp nhận điều gì tôi không hiểu, vấn đề “ba Chúa trong một Chúa” hay bất cứ điều gì tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin”.Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi “bạn có tin mặt trời không?”. Kẻ hoài nghi trả lời “dĩ nhiên có chứ”. Linh mục nói tiếp “được, ánh sáng bạn thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây 150 triệu km chiếu tới, sức nóng chúng ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh Ba Ngôi có phần tương tự như vậy mặt trời Thiên Chúa Cha. Mặt trời chiếu sáng ánh sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức nóng từ Chúa Cha và Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích được mặt trời, ánh sáng và sức nóng được không?” người hoài nghi im chị em thân mến,Khi chúng ta họp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi, trước tiên chúng ta chấp nhận rằng đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được, giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi nhiều lần, nhất là trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta đón nhận, chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mạch mọi sự thiện Ba Ngôi như mặt trời trên bầu trời. Mặt trời là nguồn năng lượng vật lý. Chúa Ba Ngôi là nguồn sống trong chúng ta. Mặt trời chiếu tỏa ánh sáng. Chúa Ba Ngôi soi sáng lòng trí con người. Mặt trời tỏa sức nóng. Chúa Ba Ngôi tuôn đổ sức nóng thiêng liêng tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Chúa Ba Ngôi không phải là bộ ba năng lượng không hồn, nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa là yêu thương “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Chúa Con yêu thương Chúa Cha và mối tương quan tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần. Tình yêu hoàn toàn thân, cho đi, để làm giàu người khác và làm nên một với người khác. “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng… nhưng Ngài là ba, ba nhưng hoàn toàn hiệp nhất với nhau đến nỗi chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Trong Ba Ngôi, mỗi ngôi hoàn toàn là tặng phẩm hiến dâng cho nhau, hoàn toàn tương qua với nhau, hoàn toàn yêu thương nhau Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha, và sự trao đổi hoàn toàn giữa Cha và Con là Thánh Thần. Vì thế, Thiên Chúa là một nhưng lại là ba; là ba nhưng lại là một. Chúa Giêsu đã nói “Mọi sự của Con là Cha, và mọi sự của Cha là của Con” Ga 17,10. “Cha Thầy và là một” Ga 10,30. “Ai thấy Thầy là thấy Cha” Ga, 14,9.Thưa anh chị em,“Thiên Chúa là Tình Yêu”, vì thế mọi hoạt động bên trong cũng như bên ngoài của Thiên Chúa đều là yêu thương từ việc tạo dựng vũ trụ, vạn vật, loại người cho đến việc cứu chuộc loài người chúng ta đều là hành động của tình yêu, một tình yêu không ngừng ban phát, chia sẻ, nhân lên. Thiên Chúa đã ban phát, đã chia sẻ tình yêu của Ngài cho loài người chúng ta và Ngài muốn cho tình yêu ấy tiếp tục tràn lan từ trong lòng chúng ta đến những con người khác “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài nên hoàn tất trong chúng ta”1 Ga 4,12. Bởi vậy, “Ai không yêu thương anh em thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu thương” 1Ga 4,8. Còn ai đã biết chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài. Loài người chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi khi trở nên một cộng đoàn huynh đệ do tình yêu từ Thiên Chúa Ba Ngôi đến nối kết chúng ta lại với nhau trong Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao xa, tuyệt vời, vì đó là chính mầu nhiệm đời sống tình yêu bên trong Thiên Chúa. Tuy nhiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi lại là một mầu nhiệm thiết thân nhất với chúng ta; vì đó là chính sự sống Thiên Chúa ban cho chúng ta. Thiên Chúa đã ban Con của Ngài để Con Ngài đưa chúng ta vào trong cung lòng Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là tình yêu luôn nối kết Chúa Cha với Chúa Con, bây giờ lại đến nối kết chúng ta với Chúa Con và Chúa Cha. Vì vậy, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là Thiên Chúa xa cách ngự nơi cao thẳm trên trời, nhưng Ngài đang ngự trong chúng ta và đang hoạt động trong chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ đến ở trong chúng ta “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy; Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở trong người ấy” Ga 14,23. Chúng ta sẽ là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta sẽ là những Đền Thờ sống động của Ba Ngôi Thiên thế, thưa anh chị em, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mới thực sự là lẽ sống cho đời chúng ta và mỗi lần đọc lên “Nhân Danh Chúa Cha , Chúa Con và Chúa Thánh Thần” chúng ta sẽ không còn đọc một cách vô ý thức nữa, nhưng với lòng cung kính mến giờ đây, chúng ta kính cẩn tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong Kinh Tin Nhìn thấy Thiên Chúa – McCarthyTrích trong Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’Suy Niệm 1. NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ THIÊN CHÚACó một câu chuyện ở Châu Phi về Thiên Chúa như sau. Một ngày nó lúc Thiên Chúa du hành qua các đại lục mênh mông, khi lên cao khi xuống thấp. Đặc biệt Thiên Chúa nhận thấy một bộ tộc đã đánh mất đức tin vào Người. Vì thế, Người hiện ra trong một cánh đồng nơi có bồn người làm việc, mỗi người một góc. Những người làm ruộng thấy Thiên Chúa đứng đó, giữa một cánh đồng, liền nhìn thật kỹ và rồi họ sấp mình thờ lạy đó, Thiên Chúa biến mất nhưng vẫn theo dõi việc gì xảy ra sau đó. Bốn người nông dân chạy về ngôi làng của họ, tập họp dân làng và tuyên bố không còn nghi ngờ gì nữa Thiên Chúa thật sự hiện hữu và chăm sóc họ khi Người ngự xuống viếng thăm họ. Vì vậy, tất cả mọi người phải bắt đầu thờ phụng Người một cách nghiêm chỉnh. Dân làng tiếp nhận tin tức với sự nồng nhiệt. Họ muốn biết những người ấy đã có thị kiến hay không. Thế nên một dân làng hỏi “Thiên Chúa ăn mặc như thế nào?”.“Người mặc một cái áo choàng đỏ”, người thứ nhất đáp.“Không, Người mặc một cái áo choàng xanh lam”, người thứ hai đáp.“Cả hai anh đều sai”, người thứ ba nói. “Đó là một áo choàng màu xanh lá cây”.“Các anh điên rồi”, người thứ tư gào to. “Người mặc một cái áo choàng màu vàng”.Và đến đây, họ bắt đầu cãi nhau. Hết cãi nhau lại đánh nhau. Sau cùng, họ khinh miệt nhau và thù ghét lẫn nhau, và phân chia ra thành bốn bè một chút suy nghĩ, họ có thể dễ dàng đạt đến sự nhất trí. Mỗi người chỉ được nhìn Thiên Chúa thoáng qua. Thay vì nhấn mạnh đến thị kiến toàn diện, họ nên thừa nhận mỗi người chỉ có được một phần thị họ cởi mở đối với quan điểm của người khác thì cuối cùng họ có thể đạt được một hình ảnh rộng rãi hơn và phong phú hơn về Thiên Chúa cao cả hơn tất cả chúng ta. Chúng ta có thể không bao giờ hiểu đầy đủ về Thiên Chúa. Chúng ta đã phải vất vả để hiểu biết những sự vật trần gian. Vậy làm thế nào chúng ta có thể hiểu hết mọi việc trên trời? Chỉ có ơn khôn ngoan mới có thể giúp chúng ta biết những đường lối của Thiên Chúa. Người ta có thể biết những chân lý đức tin nhưng vẫn chưa biết Thiên một hình ảnh chính xác về Thiên Chúa là rất quan trọng. Nếu chúng ta có một hình ảnh sai lầm, mọi sự việc khác sẽ mù mờ. Làm thế nào chúng ta có thể cầu nguyện đúng đắn, hoặc có một quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa, nếu chúng ta có một hình ảnh sai lầm hoặc không phù hợp với Người? Người Kitô hữu quan niệm đời sống là một lời đáp lại tình yêu Thiên nói Thiên Chúa giống với cái gì, tất cả chúng ta chỉ cần nhìn vào Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ của Thánh Phaolô “Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”. Vậy Đức Giêsu giống cái gì? Trong tất cả những hình ảnh mà chúng ta có về Đức Giêsu, một hình ảnh đáng yêu nhất là người Mục Tử Nhân Từ. Chính Đức Giêsu đã dùng hình ảnh ấy. Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Từ, đã thí mạng sống mình cho đàn chiên. Trong Đức Giêsu, chúng ta thấy tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. Còn về Chúa Thánh Thần? Chúa Thánh Thần là dây liên kết yêu thương giữa Chúa Cha và Chúa Con, và giữa hai ngôi Cha và Con với chúng nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải để bàn cãi hoặc nghiên cứu mà để cầu nguyện và để sống. Người Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới ấy không phải là một nơi nào đó ở bên ngoài không gian. Nó cũng là thế giới của mỗi ngày. Như trong câu chuyện Châu Phi cho chúng ta thấy Thế giới mỗi ngày là nơi Thiên Chúa biểu lộ chính Ngài cho chúng Niệm 2. Ý NGHĨA CỦA THIÊN CHÚAĐức tin không phải là thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một sự gặp gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc, nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa bằng trí óc và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ cong chúng ta. Chúng tôi không nói về một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa – một cảm giác. Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời làm văn Ngài, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng nói trong nội tâm nói với tôi Người đấy, ông hãy bái quỳ Người và thinh lặng”.Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy”.Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ, người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc lành cao cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là một phúc lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài viết“Ôi Đấng Toàn Mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên ngoài, và tìm kiếm Chúa ở bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm trong những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con mà con không ở với Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến với con khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu”.Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài chúng ta nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời Thánh Phaolô đã nói “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” Cv 17,28.Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào. Người giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong lúc ông vẫn đứng ở hậu với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn. Nhưng “Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hoà nhập vào cuộc hành trình dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, sâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật” John Updike.Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta quy phục nhưng không bị mất chính CHUYỆN KHÁCIsaac Newton là một nhà toán học và khoa học vĩ đại của mọi thời. Tuy nhiên về cuối đời ông, ông nói về những thành tựu của mình“Tôi không biết tôi xuất hiện với thế giới như thế nào, nhưng đối với tôi, tôi giống như một cậu bé chơi đàn trên bãi biển và thỉnh thoảng thích thú vì tìm thấy một viên sỏi bóng loáng hơn hoặc một vỏ sò xinh đẹp hơn thường gặp, trong khi đại dương bao la của chân lý chưa khám phá vẫn còn trải ra trước mắt tôi”.Cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ mới bắt đầu. Chúng ta vẫn chỉ là những đứa bé chơi đùa trên bãi biển. Mầu nhiệm tăng lên thay vì giảm bớt với mỗi khám phá số người muốn biết mọi sự, muốn giải thích mọi sự, muốn tháo gỡ mọi sự thành những sự kiện. Nhưng sống với mầu nhiệm là một điều lý thú. Albert Einstein đã nói “Kinh nghiệm đẹp nhất chúng ta có thể có là kinh nghiệm về điều mầu nhiệm “. cả khi có đức tin thì mầu nhiệm, bóng tối đều không thế biết vẫn còn. Chúng ta không thể thấy toàn bộ đời sống. Như lới Van Gogh đã nói “Trên trần gian này, chúng ta chỉ nhìn thấy một nửa bán cầu”12. Mầu nhiệm đức tinThánh Tôma, một nhà thần học nổi tiếng, đã nói– Sống trên trần gian, chúng ta chỉ biết rằng Thiên Chúa vượt lên trên tất cả những gì trí khôn chúng ta có thể mường tượng kỳ một ai suy nghĩ, đều phải công nhận Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Mà cái nhân của mầu nhiệm này chính là Ba Ngôi. Một điều trí khôn chúng ta chẳng bao giờ có thể khám phá Cựu ước, chúng ta không tìm thấy một dấu vết nào về mầu nhiệm cao siêu này. Chỉ mình Đức Kitô mới tỏ lộ cho chúng ta hay mà thôi. Thực vậy, Tân ước đã trình bày cho chúng ta thấy mối liên hệ mật thiết giữa Ba Ngôi cực thánh. Tín điều này là nền tảng, là khung cửa dẫn chúng ta vào miền đất của đức tin Kitô thưở đời đời, Thiên Chúa đã không cô độc lẻ loi, đã không khép kín, nhưng luôn ngập tràn yêu thương, mở ra và và chuyển thông sự sống. Cách riêng là đối với con người, Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một đặc ân cao quí, đó là được tham dự vào cuộc sống của Ba Ngôi Thiên bí tích rửa tội, Chúa Cha ban cho chúng ta quyền được làm con Ngài, cũng như quyền được thừa kế nước trời, do công nghiệp tử nạn của Đức Kitô, người anh cả của gia đình nhân thế nữa, Chúa Cha và Chúa Con còn ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Ngài là sợi dây tình yêu liên kết chúng ta lại với Chúa và với nhau. Chính vì thế, bí tích rửa tội là một ơn huệ vô cùng trọng đại. Nối kết chúng ta lại với Đức Kitô và qua Đức Kitô nối kết chúng ta lại với Chúa Ba ra, bí tích rửa tội còn giúp chúng ta nhận biết bản tính đích thực của Thiên Chúa, bản tính ấy chính là tình yêu. Thánh Gioan, vị tông đồ có diễm phúc tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly, không ngừng nói với chúng ta rằng– Thiên Chúa là tình vậy, tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một mảnh nhỏ tách ra từ trái tim ngập tràn yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một phản ảnh yếu ớt cho tình yêu của Ngài. Tất cả mọi yêu thương liên kết chúng ta lại trong tình bác ái, rập theo khuôn mẫu của Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu tuyệt vời. Đó chính là đỉnh cao của sự thánh thiện, của địa vị và phẩm giá nơi con nhưng, chúng ta phải thành thật thú nhận rằng Tình yêu là một danh từ quá mung lung và chúng ta chỉ là những kẻ mò mẫm đi tìm một cách thức diễn tả. Chúng ta chỉ có thể thấy được tình yêu đích thực trong việc chiêm ngắm, thờ lạy và vâng phục thánh ý Thiên Chúa mà từ năm 1934, Đức Thánh Cha Gioan 22 đã khuyến khích và phát động việc tôn thờ Chúa Ba Ngôi, một điểm quan trọng và nền tảng cho đức tin Kitô giáo, bằng cách mặc cho ngày lễ hôm nay một vẻ long trọng khác thường, đặt nó vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Hiện Xuống, như một kết thúc cho chương trình của Thiên Chúa tạo dựng, cứu chuộc và thánh dâng lên Chúa Ba Ngôi tâm tình thờ lạy và ngợi khen, dù ngôn ngữ loài người chỉ là những lời bập bẹ trước vẻ cao siêu tuyệt vời của Thiên hội luôn thấy ở trước mặt mình mầu nhiệm Ba Ngôi, không phải chỉ trong ngày lễ hôm nay, mà hơn thế nữa, mọi bí tích được thực hiện, mọi lời kinh chính thức được kêu cầu…tất cả đều được làm nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh mỗi khi làm dấu thánh giá cũng như mỗi khi đọc kinh sáng danh, chúng ta đều tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Và nhiều lúc, Giáo hội đã mượn lời thánh Phaolô để cầu chúc cho chúng ta– Nguyện xin ơn sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần hằng ở cùng anh chị đáp lại lời mời gọi của Giáo hội bằng cách dâng lên Chúa Ba Ngôi những tâm tình thờ lạy và cảm tạ, đồng thời hãy cố gắng sống xứng đáng với tình yêu thương mà Chúa Ba Ngôi đã dành cho mỗi người chúng Chúa Ba NgôiCác nhà thần học cổ điển đã thường tranh luận với nhau về vấn đề tương quan giữa tin và hiểu. Tin trước hiểu sau hay là hiểu trước rồi mới tin sau, đó là hai chiều kích luôn song hành với nhau. Đức tin tìm được sự hiểu biết hay là hiểu biết tìm đến đức tin. Thật ra, hiểu rồi tin hay tin rồi mới hiểu là hai chiều kích không thể thiếu được trong sinh hoạt của con người. Một con người có trí khôn để hiểu biết, nhưng lại là một trí khôn có giới hạn. Tin và hiểu, hiểu rồi tin cần bổ túc cho nhau luôn mãi trong cuộc sống nhân bản của con người cũng như trong cuộc sống mầu nhiệm Thiên Chúa vô cùng cao cả được mạc khải cho con người hữu hạn thì yêu cầu phải hiểu rồi mới tin, có thể là một yêu cầu của con người tự phụ, tự kiêu. Nhưng ngược lại, nếu chỉ muốn tin mà không cần hiểu biết gì cả thì cũng dễ dàng rơi vào trong sự mù quáng khó mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ Chúa nhật hôm nay, nếu cứ xoay quanh vấn đề tin và hiểu thì có lẽ chúng ta sẽ không đi đến đâu Giêsu đã áp dụng phương pháp đặc biệt khác đối với các tông đồ để mạc khải cho các ngài về mầu nhiệm Thiên Chúa, đó là kinh nghiệm sống cao độ giữa Chúa Giêsu và các tông đồ mà cao điểm là kinh nghiệm Chúa Phục sinh và biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống để hướng dẫn các ông tiến sâu vào trong mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các tông đồ cần sống với kinh nghiệm sống với Chúa Giêsu và cần Chúa Thánh Thần hướng dẫn để có thể đi sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa này, và khám phá ra mầu nhiệm Thiên Chúa đó không phải một Thiên Chúa đơn độc, nhưng là một Thiên Chúa phong phú gồm cả Ba Ngôi Cha, Con và Thánh mời theo Chúa và cả khi gần kết thúc cuộc đời theo Chúa trên trần gian, các tông đồ đã không hiểu gì cho lắm về mầu nhiệm Thiên Chúa như được Chúa Giêsu mạc khải. Các ngài còn tranh tụng với nhau về địa vị lớn nhỏ, muốn ngồi bên hữu, bên tả của Chúa. Tranh tụng với nhau về lúc nào sẽ thiết lập lại vương quốc cho dân tộc Israel và tranh tụng với nhau biết bao chuyện thường tình khác nữa của con người trần nghiệm sống của các ông với Chúa Giêsu chắc có lẽ sẽ không đi đến đâu, sẽ không phát sinh hiệu năng làm các ông trở thành chứng nhân cho Chúa, bao lâu các ông chưa hiểu mối liên hệ nào giữa cuộc đời của các ông với cuộc đời của Chúa Giêsu Theo Chúa để làm gì? Và có ích gì cho cuộc sống?Hành động của Chúa Giêsu Phục sinh ban Chúa Thánh Thần xuống trên các tông đồ có thể nói là hành động cuối cùng để hoàn tất công cuộc mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa, để đưa các tông đồ vào mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn. Chúa Thánh Thần sẽ dẫn đưa chúng con đến vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần sẽ đến để dẫn đưa chúng con vào trong sự thật mỗi ngày một trọn vẹn hơn, sâu xa là điều mà chúng ta nghe được trong bài Phúc âm hôm nay, một đoạn trích ngắn từ bài diễn văn dài của Chúa Giêsu cho các tông đồ trong bữa Tiệc Ly. Đó là con đường tương quan sống động giữa Thiên Chúa và con người. Nếu mất đi hay không có mối tương quan này thì e rằng những đồ đệ của Chúa ngày xưa cũng như chúng ta hôm nay sẽ chỉ là những kẻ mang danh hiệu là người Kitô, người Công giáo trống rỗng, không có nội dung, không có cuộc sống thánh thiện chi xúc hằng ngày với Chúa Giêsu, các tông đồ cảm nghiệm được rằng, mầu nhiệm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải trước mắt các ông qua lời giảng dạy và qua những dấu lạ Chúa làm là một mầu nhiệm rất phong phú về Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, luôn luôn hiệp nhất với nhau và luôn luôn yêu thương con người, muốn biến đổi con người để con người sống yêu thương hiệp nhất với nhau và với Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần có một ý định rõ ràng là mời gọi các ông, mời gọi những con người đi theo Ngài hãy cộng tác vào chương trình hành động của Thiên Chúa trong lịch sử, để tình thương Thiên Chúa được hiện diện mãi trong con lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức của trí khôn con người, một trí khôn có giới hạn nhưng lại tự kiêu, không chấp nhận giới hạn, muốn đặt vấn đề về tất cả mọi sự và thắc mắc tại sao Thiên Chúa có một mà lại có ba ngôi? Chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức này để kiểm điểm lại mối tương quan sống động giữa ta với Thiên Chúa hiện nay. Mối tương quan đó như thế nào rồi? Đang sinh sống tốt tươi hay đã héo hon. Xin Chúa giúp chúng ta thiết lập lại mối tương quan này, cảm thấy được Thiên Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta và xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta, và để cho tình yêu đó biến mọi người chúng ta mỗi ngày trở nên chứng nhân cho Ngài giữa anh chị Ba Ngôi Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa của tình yêu thương, xin gìn giữ chúng con trong tình yêu mãi mãi và biến mỗi người chúng con trở nên những chứng nhân làm chứng cho tình yêu này. Xin Chúa thương gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Mầu nhiệmMầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm thâm sâu, cao cả nhất, vì là chính đời sống nội tại của Thiên Chúa, và đây cũng là mầu nhiệm trung tâm và nền tảng của các mầu nhiệm khác. Bởi vì các mầu nhiệm khác như Nhập Thể, Cứu Chuộc, Sống Lại, Lên Trời, Hiện Xuống đều đặt nền tảng trên mầu nhiệm này, hoặc chỉ hiểu được nhờ mầu nhiệm này. Nhìn vào lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy rõ ràng có Ba Ngôi hoạt động Chúa Cha sai Con mình xuống trần cứu thế, Chúa Con sinh làm người thực hiện ý định cứu chuộc của Chúa Cha. Rồi Chúa Thánh Thần được cả Chúa Cha và Chúa Con gửi đến để trợ giúp và thánh hóa mọi người và mỗi người hoàn thành ơn cứu chuộc của vậy, khi dạy cho chúng ta biết công cuộc cứu chuộc của Ngài, Thiên Chúa đồng thời cũng dạy cho chúng ta biết về Ba Ngôi nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể biết được mầu nhiệm này nhờ Thiên Chúa trực tiếp mạc khải. Tuy nhiên, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu. Con số 1, 2, 3 là để đếm đo. Mà đã đếm đo thì phải là những gì hữu hình, có lượng, có chất thì mới đếm đo được. Thiên Chúa vô hình, thiêng liêng, không lệ thuộc vào không gian và thời gian như chúng ta, thì làm sao đo đếm được. Mặc dầu mầu nhiệm này đã được chính Chúa Giêsu dạy bảo qua ngôn ngữ của loài người, nhưng vẫn là chuyện khó hiểu. Tuy nhiên, khó hiểu mà không nghịch Kinh Thánh, chúng ta thấy có Ba Ngôi. Ba Ngôi thật sự phân biệt nhau, khác nhau, nhưng Ba Ngôi chỉ có một bản tính duy nhất là bản tính Thiên Chúa, nên chỉ có một Thiên Chúa thôi. Ngôi Cha và Ngôi Con là một một bản tính, một quyền năng như Chúa Giêsu đã quả quyết “Cha Ta và Ta là một”. “Cha Ta làm sao thì Ta làm y như vậy”, “Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha”. Ngôi Ba và Ngôi Hai cũng là một, như Chúa Giêsu đã nói “Chúa Thánh Thần sẽ đến từ Cha và Ta. Người chỉ nói những gì nghe biết bởi Chúa Kitô”, “Ai nói dối Chúa Thánh Thần thì cũng nói dối chính Thiên Chúa”. Những điều trên cho chúng ta biết Ba Ngôi đồng bản tính với nhau, nếu không đồng bản tính thì không thể có sự liên hệ và lệ thuộc mật thiết giữa Ba Ngôi như vậy cuộc đời trần thế này, nơi chúng ta còn đang bước đi trong đức tin, chúng ta không thể hiểu được hết, được nhiều về một mầu nhiệm cao cả và thâm sâu như vậy. Chúng ta chỉ hiểu được phần nào trong giới hạn chật hẹp của trí tuệ con người và qua những hình ảnh tương đối, bất toàn, mượn nơi thế giới loài người, như hình tam giác đều, ba tài năng của con người hiểu, nhớ và muốn. Ba giai đoạn của thời gian quá khứ, hiện tại và tương lai. Điện có sức làm chuyển động, đốt nóng và soi sáng… Chúng ta dùng kiểu nói nào hay hình ảnh nào để diễn tả thì cũng chỉ là tương đối vậy thôi, vì ngôn ngữ loài người không thể diễn tả hết được, như có người đã nói “Đố ai định nghĩa được tình yêu”, phương chi là nói tới Thiên Chúa Ba một câu chuyện kể rằng một hôm, khi suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thánh Âu Tinh, trong một thị kiến, nhìn thấy mình đi bách bộ trên bãi biển. Bên bờ đại dương bao la, ngài nhìn thấy một em bé chơi một trò chơi kỳ lạ. Em đào một lỗ nhỏ giữa cát trắng, và dùng một cái vỏ sò múc nước biển đổ vào lỗ ấy. Cho đến bao giờ em mới múc được hết nước đại dương đổ vào cái lỗ nhỏ ấy? Không thể làm được. Thì ra đó là một thiên thần từ trời xuống dạy cho nhà tiến sĩ Âu Tinh một bài học về Thiên Chúa Ba Ngôi đừng hòng dùng lý trí để mà tìm hiểu bản thân của Thiên Chúa vô hình và siêu việt, người ta chỉ có thể dùng con tim để mà tiếp xúc và hiệp thông mà nên, chúng ta hãy xin Thiên Chúa cho lòng chúng ta được khiêm tốn. Đừng bao giờ điên rồ đòi “giải quyết vấn đề Thiên Chúa”, đứng mất công bóp trán hòa hợp số 1 với số 3, vì Thiên Chúa không phải là một vấn đề hay một bài toán để chúng ta giải quyết. Nếu Thiên Chúa nằm trong sự giải quyết của con người thì không còn phải là Thiên Chúa nữa, mà chỉ là sản phẩm do trí óc chật hẹp của con người tạo ra. Nhưng đâu phải trí óc chúng ta tạo nên Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đã tạo nên trí óc chúng đề nghị một điều, hay đúng hơn là nhắc lại một điều, bởi vì điều này chúng ta đã và đang làm rồi, đó là làm dấu thánh giá. Mỗi lần làm dấu thánh giá là một lần chúng ta biểu lộ lòng tôn kính và tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Điều muốn nói ở đây là chúng ta hãy làm dấu thánh giá mỗi khi có thể và nhất là làm nghiêm trang, tôn kính, đúng vị trí từng ngôi trên trán, trên ngực và trên hai vai đàng hoàng, chứ đừng làm ẩu, vội vàng như đuổi ruồi muỗi hay vẽ bùa, vừa bất kính vừa không ích lợi gì. Ước mong từ nay, trước khi làm một việc gì, chúng ta hãy làm dấu thánh giá với tất cả ý thức và niềm tin Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh LiêmTHIÊN CHÚA BA NGÔIThời Cựu Ước người Do Thái nhận biết “Thiên Chúa là Đấng duy nhất” 4. Nhờ Đức Yêsu, Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa là “Ba Ngôi Vị”.Con người nói về Thiên ChúaThiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, ngôn từ con người không thể diễn tả hoàn toàn được. Những hình ảnh diễn tả về Thiên Chúa Cha như một “ông già” râu dài phúc hậu, hoặc “chim bồ câu” chỉ Chúa Thánh Thần, là những hình ảnh biểu trưng. Cả những từ ngữ về Thiên Chúa, như “Cha”, như “Con”, như “Thánh Thần”, cũng là những từ ngữ được dùng với nghĩa loại suy; nghĩa là, chúng chỉ diễn tả được phần nào về Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình, Ngài không có hình ảnh như con người; Thiên Chúa là Cha, nhưng không phải là cha hoàn toàn theo nghĩa con người vẫn thường dùng; Thiên Chúa là Con nhưng cũng không phải là con như con con người, cha luôn có trước con, nhưng không như vậy nơi Thiên Chúa Ba Ngôi; nơi Thiên Chúa, Ba Ngôi không ngôi vị nào có trước ngôi vị nào; tuy vậy Thiên Chúa vẫn là Cha, là Lời, là Thánh Thần; và cũng có thể nói Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần. Nơi con người, chỉ có một bản tính người nhưng có nhiều người khác nhau; nhưng không vậy nơi Thiên Chúa. Tuy một bản tính Thiên Chúa, nhưng Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba Chúa, mà chỉ là một Thiên Kinh Thánh, không có từ ngữ “ba ngôi”. Từ ngữ “ba ngôi” là từ ngữ do các nhà thần học sáng tạo để diễn tả Thiên Chúa là Đấng “nguồn” của mọi sự, Đức Yêsu như Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa, đến độ đồng nhất với Thiên Chúa, và được diễn tả là “Thiên Chúa nhập thể”, Thánh Thần như Đấng từ Cha và Con. Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba thực tại nếu là ba thực tại, nghĩa là, ba Chúa, nhưng chỉ là một thực tại, và là ba ngôi vị phân biệt rõ ràng Cha không phải là Con hoặc Thánh Thần, Con không phải là Cha hoặc Thánh Thần, Thánh Thần không phải là Cha và Con. Tuy vậy Ba Ngôi là một với nhau, là một trong mọi sự, là một trong bản tính, là một trong ý muốn, là một trong quyền năng, là một trong hiện Chúa Đấng là nguyên uỷ mọi loài, là nguồn của tất cả, là “Cha”, là Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa nơi Đức Yêsu, là Thiên Chúa nhập thể, là “Con”, là ngôi hai Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa. Thánh Thần là Thiên Chúa đang hiện diện nơi cung lòng con người, hướng dẫn con người trong mọi sự, dạy dỗ con người mọi điều, là Ngôi Ba Thiên Chúa Đấng Siêu Việt, Đấng vượt trên tất cả, Đấng “ngự trên trời”, đang hiện diện trong cung lòng mỗi người Ngay cả từ ngữ “ngự trên trời”, cũng là cách nói để chỉ Thiên Chúa là Đấng siêu việt mà con người không thể thấu đáo được. Đức Yêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” nhưng Ngài đang “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.Ngôn từ là phương tiện để diễn tả về Thiên Chúa, phaỉ cố gắng để hiểu, và xin ơn Thánh Thần để hiểu Thiên Chúa hơn. Nói như vậy, không phải là phủ nhận giá trị của từ ngữ. Cũng phải dựa vào từ ngữ để hiểu điều Kinh Thánh, Giáo Hội, và các nhà thần học muốn diễn Chúa Ba Ngôi yêu thương chúng ta vô cùngGiáo Hội đọc Cựu Ước trong niềm tin Thiên Chúa Ba Ngôi, và hiểu Đức Khôn Ngoan đã hiện diện với Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng vũ trụ. Đức Khôn Ngoan là Ngôi Lời Thiên Chúa trước khi nhập thể. Đức Khôn Ngoan trước khi nhập thể, vẫn ở nơi Thiên Chúa và đã yêu mến con Thần, Đấng ở nơi Thiên Chúa và được sai tới với con người, sẽ dạy dỗ con người, sẽ dẫn con người tới sự thật trọn vẹn. “Mọi sự của Cha đều là của Thầy” nhưng Thánh Thần lại “lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”, như vậy nơi Ba Ngôi tất cả là chung.“Thiên Chúa đã tuôn đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”. Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa, yêu chúng ta vô hỏi gợi ý chia sẻ1. Bạn có thường ý thức Thiên Chúa luôn hiện diện với bạn không? Ý thức Thiên Chúa hiện diện với bạn, bạn được gì?2. Bạn hiểu thế nào khi nói Thiên Chúa là Cha? Tương quan của bạn với Ngài như thế nào?3. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Tại sao?16. Suy niệm của JKNCâu hỏi gợi ý1. Có phải tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa đều đã được mạc khải qua Đức Giêsu Kitô, và không còn gì để nói về Thiên Chúa ngoài những mạc khải ấy?2. Theo Đức Kitô, khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn». Thần Khí sự thật đã đến chưa, và Ngài đã mạc khải sự thật về Thiên Chúa như thế nào?3. Có thể có nhiều cách nhìn khác nhau nhau về Thiên Chúa không? Các cách nhìn ấy có thể mỗi cách đều có giá trị riêng của nó không? Tại sao?4. Ba Ngôi Thiên Chúa có khác biệt nhau không? Sự khác biệt ấy làm cho Ba Ngôi hợp nhất hay chia rẽ? Sự khác biệt giữa mọi loài, mọi vật, mọi tôn giáo trên thế giới, có nằm trong ý muốn của Thiên Chúa không?Suy tư gợi ý1. Còn nhiều điều phải nói về Thiên Chúa hơn những điều đã nói Giêsu đến thế gian để mạc khải cho con người biết về Thiên Chúa, nhưng đời Ngài quá ngắn ngủi 33 năm, mà trong đó Ngài chỉ dành một phần thời gian rất nhỏ 3 năm để giảng dạy. Làm sao Ngài có thể nói hết về Thiên Chúa, Đấng vô cùng vô tận? Thế giới này là hữu hạn, thế mà con người nghiên cứu hết đời này đến đời khác, thế kỷ này đến thế kỷ khác, và đã có hàng tỷ cuốn sách viết ra về thế giới, thế mà vẫn không hết. Con người lúc nào, thời nào cũng vẫn khám phá ra cái mới về thế giới, vũ trụ. Thế giới hữu hạn mà còn vậy, Thiên Chúa là Đấng vô hạn, lẽ nào Đức Giêsu lại chỉ cần nói trong 3 năm mà hết được? Giả như Đức Giêsu có dành ra 100 hay 1000 năm để nói về Thiên Chúa, thì cũng không nói hết được, vì Ngài là Đấng vô biên và phong phú khôn lường! Vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Ngài nói Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi». Nghĩa là về Thiên Chúa thì còn nhiều điều phải nói lắm, nhưng có nói thêm thì các tông đồ lúc ấy chẳng lãnh hội được!Không có sức chịu nổi», vì chân lý về Thiên Chúa thì quá cao siêu, mà khả năng hiểu biết của con người thì quá hạn hẹp, nông cạn, làm sao trong một thời gian quá ngắn con người hiểu biết được. Những môn học dành cho cấp 3, thì học sinh cấp 2 không thể lãnh hội được. Cũng vậy, Đức Giêsu không thể nói cho các môn đệ những điều về Thiên Chúa vượt quá khả năng lãnh hội của họ lúc đó được, vì nói mà họ không hiểu thì vô ích. Ngài chỉ nói trong khả năng lãnh hội hạn hẹp của họ mà thôi. Phải chờ trình độ hiểu biết, suy tư và tâm linh của họ cao hơn, thì mới có thể nói những điều cao siêu, khó hiểu thế, chúng ta đừng quá ảo tưởng về những điều đã được mạc khải qua Đức Giêsu, cho đó là trọn vẹn, là gồm đầy đủ tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa của chúng ta lại quá hữu hạn như thế sao?2. Thần Khí sự thật sẽ tiếp tục mạc khảiCon người có nhu cầu hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế, việc mạc khải về Thiên Chúa vẫn được tiếp tục mạc khải qua lịch sử con người bởi Thánh Thần, như Đức Giêsu đã hứa Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn». Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần, nhưng Ngài không nói gì cả. Và chắc chắn trong suốt chiều dài lịch sử con người, Ngài còn xuống trên rất nhiều người khác nữa, thuộc tất cả mọi thời đại. Cách mạc khải của Thánh Thần không phải theo kiểu của Đức Giêsu nhập thể thành một người để nói với một số người. Mà theo kiểu ngôn sứ Giôen đã báo trước Thiên Chúa phán Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta, cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ» Cv 2,17-18; xem Ge 3,1-2.Nếu tất cả những gì Đức Giêsu nói không phải là tất cả những gì có thể nói được về Thiên Chúa vô hạn, thì chắc chắn còn nhiều điều được mạc khải về Thiên Chúa là do Thánh Thần của Ngài, ngoài những gì Đức Giêsu đã nói. Theo ngôn sứ Giô-en được Phê-rô nhắc lại trong sách Công vụ tông đồ, thì trong lịch sử con người, Thần Khí đã được đổ xuống trên rất nhiều người, để họ nói lên những chân lý về Thiên Chúa, và đó chính là mạc khải của Thánh Thần. Những mạc khải ấy ở đâu? là gì? Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ, và rất có thể nhờ đó, ta thấy được chỗ đứng của các tôn giáo trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên khi Ngài là chủ tể điều khiển lịch sử, thì việc xuất hiện các tôn giáo lớn trên thế giới không thể là ngoài thánh ý của Ngài. Nhất là khi Ngài lại để cho các tôn giáo ấy xuất hiện và phát triển trước Kitô giáo. Chẳng hạn tại châu Á, đang khi các tôn gio khác xuất hiện từ những thế kỷ đầu công nguyên, thì mãi đến thế kỷ 15, Thiên Chúa mới cho Kitô giáo được truyền bá một cách có qui mô tại châu Á. Tại sao Thiên Chúa lại để Kitô giáo đến trễ như vậy? Ngài có muốn Kitô giáo cạnh tranh với các tôn giáo khác không? – Chúng ta phải nhận ra ý muốn của Ngài qua việc Ngài đã làm trong lịch sử, chứ không phải là đoán ý của Ngài qua sự mong muốn của chúng ta! Trời cao hơn đất bao nhiêu thì thánh ý Ngài cao hơn ý chúng ta như vậy! xem Is 55,8-93. Muôn loài vạn vật đều đa dạng và đa diệnThiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật đa hình đa dạng, và vật nào cũng đều đa diện. Vật nào cũng đều có thể có nhiều cách nhìn khác nhau, do nhiều người khác nhau nhìn từ nhiều vị trí khác nhau. Cùng một vấn đề, nhưng người nhìn thấy thế này, kẻ nhìn thế khác một bác sĩ khó có thể có cùng một cách nhìn với một kỹ sư, và lại càng khác xa cách nhìn của một bác nông dân. Chẳng ai dám kết luận là cách nhìn này đúng, cách nhìn này sai, mà chỉ có thể kết luận rằng chúng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Thiên Chúa vẫn luôn luôn thích có sự đa dạng trong vũ trụ. Chẳng hạn đối với loài hoa, Ngài đã dựng nên hàng vạn loại khác nhau, trong đó mỗi loại đẹp mỗi vẻ. Chắc chắn Ngài và bất kỳ ai trong chúng ta, chẳng ai muốn dẹp đi mọi loại hoa, chỉ để tồn tại một loài mà ta nghĩ là đẹp nhất mà thôi. Như thế thế giới này sẽ bớt phong phú, sẽ trở nên buồn tẻ hơn. Cũng thế, chắc hẳn Ngài cũng không thích trên thế giới này chỉ tồn tại một cách nhìn duy nhất về Ngài, một cách thờ phượng duy nhất dành cho Ngài theo kiểu một tôn giáo nào đó, vì như thế, thế giới sẽ trở nên đơn điệu, buồn tẻ. Chính vì thế, Ngài đã cho lập nên nhiều tôn giáo, nhiều ý thức hệ khác nhau, không phải để nhân loại chia rẽ nhau, mâu thuẫn nhau, mà để bổ túc cho Chúa muốn người ta hợp tác với nhau, yêu thương nhau, chấp nhận sự khác biệt của nhau, hơn cả sự hoàn hảo cá nhân của họ. Chính vì thế, Ngài đã không dựng nên những con người hoàn hảo, có khả năng tự độc lập. Mà Ngài đã dựng nên những con người không hoàn hảo người được mặt này mất mặt kia, kẻ được mặt kia nhưng lại mất mặt này, để con người cần lẫn nhau, nương nhau mà tồn tại, hầu nhờ đó họ cộng tác với nhau, yêu thương nhau. Cũng như người nam và người nữ nhờ khác nhau, nhờ không hoàn hảo người được mặt này kẻ được mặt kia, mà họ yêu thương và kết hợp với nhau thành vợ Hãy bắt chước Ba Ngôi Thiên Chúa của chúng taThiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa Ba Ngôi Ba Ngôi khác biệt nhau, mỗi Ngôi một vẻ. Nhờ vậy, Ba Ngôi yêu thương nhau, hợp với nhau thành một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi tuy khác biệt nhau, nhưng lại chấp nhận nhau, cần lẫn nhau, hợp tác với nhau, yêu thương nhau, sống chung hòa bình với nhau. Ba Ngôi không bao giờ muốn tiêu diệt nhau để chỉ còn một Ngôi tồn tại. Ba Ngôi đều bằng nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng cả sự bình đẳng giữa nhau, không Ngôi nào muốn vượt trội hơn để thống trị Hai Ngôi người, mọi gia đình, mọi tập thể, mọi tôn giáo, cần bắt chước Ba Ngôi trong những khía cạnh ấy. Đừng ai mong mình vượt trội hơn những người khác, muốn thống trị những người khác, muốn chiếm địa vị độc tôn, độc quyền. Ba Ngôi của chúng ta là một Ba Ngôi hợp nhất, nhưng hợp nhất ở đây là thứ hợp nhất trong đa dạng, chứ không phải hợp nhất trong đồng nhất. Mọi tập thể, mọi gia đình, mọi tôn giáo, cần phải chống lại cơn cám dỗ muốn hợp nhất bằng cách làm mọi sự thành đồng nhất muốn mọi người chỉ còn một cách nhìn, một cách suy nghĩ duy nhất là cách của mình. Trái lại, cần phải tôn trọng sự khác biệt và bình đẳng, thì nhân loại mới có nhiều khả năng yêu thương nhau, và sống chung hòa bình với nhau chia rẽ, chiến tranh trong gia đình, trong tập thể đều phát xuất từ ý của một người nào đó muốn áp đặt ý của mình lên người khác, muốn thống trị, muốn trổi vượt, muốn độc tôn. Và cái ý ngông nghênh ấy cuối cùng chỉ là những hình thức thể hiện tính kiêu ngạo, ích kỷ, muốn tự đề cao nguyệnLạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin cho mọi người, mọi tập thể trên trần gian, trong đó có Giáo Hội của chúng con, biết bắt chước tinh thần yêu thương hợp tác của Ba Ngôi biết yêu thương nhau, biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau, không áp đặt lẫn nhau, ép người khác trở nên giống mình, nghĩ như mình, nhưng muốn cho nhau cùng tồn tại, để cùng xây dựng một thế giới hòa bình, yêu thương và hợp nhất với nhau. Đó cũng chính là Nước Trời mà Đức Giêsu muốn xây dựng cho trần Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc XáiBA NGÔI THIÊN CHÚA, MỘT CỘNG ĐOÀN HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNGNgười ta kể rằng Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể khí, lỏng và rắn… Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi– Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?Gần như cả lớp đồng thanh– Thưa cha bật cười– Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian. Một tình yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con chí thánh; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần. Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi Cha trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay cái gì đó ở bên ngoài mình, nhưng là trao đi điều quý nhất “Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi tặng ban cả Con Một…”Thiết nghĩ không có hình ảnh nào diễn tả đẹp hơn mầu nhiệm Ba Ngôi cho bằng hình ảnh một gia đình vợ chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của tình yêu.” Mình với ta tuy hai mà một… Ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một”. Dù là hai, bốn, mười hoặc nhiều hơn đi nữa, nhưng gia đình, cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một niềm vui để chia sẻ, một nỗi buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên thánh… Tiếc rằng ngày nay, nhiều gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm, nhưng biến thành nhà trọ khách đến rồi khách lại đi, chẳng cần biết những người thân yêu của mình đang nghĩ gì, làm gì, cần gì và sống như thế nào! Đời sống gia đình nặng nề, khó thở và tẻ nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình yêu nhớ lại câu chuyện khá ngộ nghĩnh xảy ra tại một cộng đoàn các sư huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị, người Việt mình thường quen gọi là các “phe” frère. Lần kia, một nhân viên của sở bưu điện đem thư đến, vừa giao thư vừa lẩm bẩm “Nhà có ba người thì ba phe, sống chó gì được!” chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết Kính gởi phe M., phe H., phe B.. Thật là một sự hiểu lầm tai hại!Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu chúng ta còn xa lạ với tình yêu được bắt đầu ngay trong gia đình, cộng đoàn. Gia đình, cộng đoàn chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du dương hòa điệu, trong đó mỗi người là một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để. Xin đừng tự ý thăng giáng, cũng đừng thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống đúng bổn phận Chúa trao, và như thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy hướng về tình yêu, tình yêu của mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại nhiều lần khi làm dấu thánh giá Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Sr Têrêsa, trích từ Vietcatholic18. Thiên Chúa Ba NgôiTrong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba hết là Ngôi Cựu ước, dân Do Thái là một gia đình có Thiên Chúa là cha. Ngài là đấng đã tuyển chọn quan phòng và chăm sóc đến những nhu cầu của Tân ước, Chúa Giêsu đã nhiều lần mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa Cha. Ngài là Cha của mọi người. Ngài yêu thương chăm sóc và ban thưởng cho những việc lành chúng ta làm. Ngài tha tội và nêu gương thánh thiện. Tương quan của mỗi người đối với Chúa là lòng hiếu thảo rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô đã làm việc nhân danh Chúa Cha. Giáo lý của Đức Kitô là bởi Chúa Cha. Đức Kitô vâng theo thánh ý Chúa Cha và hoàn tất mọi việc Chúa Cha trao Chúa là Cha. Trong các tôn giáo, liệu có vị thần nào dám mạc khải mình như thế không. Chúng ta có hãnh diện vì được một Thiên Chúa ở gần và yêu thương như một người Cha. Có lẽ nhiều người trong chúng ta chưa kinh nghiệm được tình phụ tử, và chúng ta tự hỏi– Tại sao người công chính lại gặp phải tai ương hoạn nạn, còn đứa ác nhân lại gặp nhiều may hết, chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, Ngài làm mưa trên người lành cũng như trên kẻ dữ. Ngài muốn tỏ ra nhân hậu với mọi người cho đến khi sự công bằng được tỏ hiện trong ngày sau hết. Còn với người lành gặp nhiều tai ương, Chúa cũng vẫn tỏ lòng từ nhân. Ngài muốn họ vững lòng cậy trông vào Ngài, đồng thời hãy can đảm và kiên trì vì kiên trì trong gian truân sẽ đưa đến hạnh phúc nước trong những khó khăn thử thách chúng ta cần xét đến một lý do nữa, Thiên Chúa thử thách con cái Ngài để xem họ có bằng lòng vâng phục hay không? Vì vâng lời trọng hơn của lễ. Chúa đặt chúng ta vào trong hoàn cảnh nan giải để xem đức tin của chúng ta đã trưởng thành hay chưa?Một người cha thật thì phải biết giáo dục và uốn nắn con cái chứ không được nuông chiều. Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi. Gương ông Giob đã chứng tỏ cho thấy một đức tin không nao núng trước nghịch cảnh. Cách giải quyết tốt đẹp nhất là tin tưởng và phó thác cho tình thương của đến là Ngôi khi nguyên tổ phạm tội thì nhân loại sống dưới ách tội lỗi. Con người không thể tự mình giải thoát vì tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, cho nên cần phải có một Đấng cứu thế, đó là chính Ngôi Hai Thiên Chúa mới có đủ thẩm quyền cứu độ chúng Ngôi Hai chúng ta cần biết một vài điểm cốt yếu Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Ngài là Đấng vô tội đã mặc lấy thân phận tội nhân để cứu chuộc chúng ta. Ngài là đường, là sự thật, là sự sống. Ngài đã thiết lập Giáo hội và trao ban cho Giáo hội các bí tích để tiếp tục công cuộc cứu độ cho đến tận cùng thời cùng là Chúa Thánh sứ mạng Chúa Giêsu hoàn tất, Ngài về trời và sai Chúa Thánh Thần đến trong ngày Hiện xuống để thánh hóa chúng ta và hướng dẫn Giáo những việc làm của Chúa Thánh Thần chúng ta ghi nhận Ngài thánh hóa chúng ta, hồi sinh những tâm hồn tội lỗi. Ngài ngự trong chúng ta và trong Giáo hội. Giúp Giáo hội đào sâu chân lý và trang điểm Giáo hội bằng muôn ơn sủng để trở thành hiền thê của Đức nâng đỡ và ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nguy thử thách, giúp đỡ chúng ta chống lại những dục vọng sai trái. Ngài cầu nguyện thay cho chúng ta là những kẻ yếu hèn. Trong những giờ phút u tối, đừng bao giờ mất lòng cậy trông, hãy chạy đến với Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ soi sáng và thêm sức, Ngài làm cho tâm hồn chúng ta dịu lại trước thánh ý Thiên Chúa…19. Sống đời sống Thiên ChúaNăm 1961, sau khi người Cộng sản Liên Xô phóng được lên không gian phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì có người đã tuyên bố Chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời ta phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng việc người ta phủ nhận Thiên Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có. Cũng như người ta có phủ nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói lọi trên đầu chúng nay, trong bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách đây ba ngàn năm, có một dân Israel, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự lạ và hôm nay, giữa chớp lòe sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân phải kêu lên “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác”.Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu xuống thế, Người hé mở cho chúng ta một mầu nhiệm Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi. Ngài mặc khải cho chúng ta chính đời sống thần linh của Thiên Chúa. Người nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha. Người và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Người với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Người cầu nguyện cùng Chúa Cha, Người nói lời của Chúa Cha cũng như Người hứa ban Thánh Thần. Người hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Người dạy ai muốn theo Người phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng ta không thể hiểu thấu được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình ảnh Chúa là một mà có Ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng trải qua ba giai đoạn trẻ, trung niên và già -ba giai đoạn nhưng một cuộc đời. Linh hồn có các cơ năng trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận –ba cơ năng của một linh hồn. Nước là một, nhưng có ba hình thức mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước chảy dưới cầu, đều là nước dưới ba hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công giáo Ái Nhĩ Lan là một chiếc lá với ba khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng có Ba Chúa mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là đời sống căn bản thần linh. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, tâm hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa Ba Chú giải của Noel QuessonKinh Thánh không công bố lần nào từ trừu tượng, “Chúa Ba Ngôi” cả. Kinh Thánh cũng không bao giờ định nghĩa như ngôn ngữ duy lý Hi Lạp sẽ làm, là có “Ba Ngôi vị trong Thiên Chúa duy nhất. Mầu nhiệm cố yếu nhất trong Thiên Chúa không được mạc khải bằng những công thức nhưng nhờ các sự kiện Cựu ước chỉ nói về Thiên Chúa Người Cha” Đnl 32,6 – Tv 67, 6 – Is 63, 16 Gr 2, Và các “con cái” của Thiên Chúa là dân tộc Israel Xh 4,22 -Hs 11,1, hay hiện thân là ông Vua 2 Sm 7,14 – Tv 110,3 hơn những người công chính Kn 2, 18 – 5,5 – 18, 13. Sau cùng, ta nhận thấy Thần Khí của Thiên Chúa xâm nhập một số người St 41, 38 – Ti 6, 34 -Is 11,2 – Ed 39, 29 – Ge 3, 1.Đúng vậy Cựu ước đã không mạc khải cách minh nhiên Ba Ngôi trong Thiên Chúa. Nhưng ngay các tác giả Tân ước cũng lập lại thứ ngôn ngữ Kinh Thánh trên, để diễn tả tính hoàn toàn mới lạ của “hiện tượng Giêsu” Ngài trực diện với Chúa Cha, và loan báo việc thông ban Thần Khí. Khi cắt nghĩa những sự kiện đó, Kitô giáo còn phải dò dẫm suy tư rất lâu, trước khi xác định một kiểu diễn tả đức tin đầu tiên nhớ những quan niệm triết học HiLạp, từ Công đồng Ni-xê năm 325 đến Công đồng Kan-xê-Đoan năm trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêau nói về Thánh còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu là một kinh nghiệm mà con người chúng ta thường gặp thấy Ngay cả với những người thân yêu, chúng ta cũng khó mà “thông truyền” hết những gì mà chúng ta mang trên mình và muốn chia sẻ cho họ. Như vậy, trước khi chịu chết Đức Giêsu đã không nói hết mọi điều. Nhưng đây không chỉ là khó khăn ta quen gặp trong vấn đề diễn tả. Đây chính là mầu nhiệm đức tin mà ta chỉ dần dần bước vào. Ngay cả những bạn hữu thân thiết nhất, đã sống kề cạnh lâu ngày với Đức Giêsu, cũng không nhận thức được điều gì đã xảy ra, Người là “Ai”. Họ mang quá nhiều ý kiến có sẵn về Thiên Chúa và Đấng Mê-xi-a đã được hứa ban. Họ cần phải tự lột bỏ, thay đổi ý kiến, và lớn lên trong đức tin. Chỉ có thập giá và sự Phục sinh của Người, như một thứ va chạm điện mãnh liệt, mới phá được những xác tín của họ và bó buộc họ phải tiến đức tin là một sự “tiến triển”. Đó là một sức sống cần phải phát triển. Trong Thiên Chúa, luôn có những điều mới lạ cần phải khám phá, cũng như trong sự phát triển của một tương quan yêu thương với một người nào đó hôn phu, người chồng, bạn hữu, đồng nghiệp… Biến cố bi đát của tông đồ, là những người hầu như không hiểu biết gì về Đức Giêsu trước lúc Người ra đi, cảnh giác chúng ta không nên biến đức tin thành một Đức tin tĩnh, chỉ đắc thủ một lần là xong… “Tôi có đức tin rồi…” “Tôi không thể mất đức tin…”Cũng như các tông đồ tôi mới chỉ ở bước đầu của một cuộc khám phá, một cuộc mạo hiểm. Lạy Chúa, đối với con, cũng có nhiều điều con chưa chịu nổi, Thần Khí của Chúa sẽ mạc khải cho con sau này, nếu con biết chăm chú lắng nghe. Xin giữ gìn thần trí con luôn thức tỉnh để đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa! Chớ gì đừng bao giờ con tự mãn, coi mình là hiểu biết tất cả, vênh vang trước những mảnh vụn Đức tin tầm thường mà con đang nhiên, con cũng nghĩ đến những người con đang chung sống. Họ cũng gặp một tình trạng như thế Họ đang bước đi trên cùng “con đường đức tin” đó. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói, có những chân lý, những thái độ họ chưa khám phá ra cách sống động… Giờ đây họ chưa có thể “chịu nổi”? Lạy Chúa, xin ban cho con sự kiên nhẫn của Chúa. Chớ gì con biết tiến bước nhịp nhàng với Chúa, với những mạc khải yêu thương của Chúa… cùng đồng hành với anh em con trong bước tiến riêng của nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn ghi nhận từ đẹp trên đây “dẫn tới” Tôi hình dung ra một người dẫn đường lên núi cao. Đó là người biết rõ mọi lối đường là người yêu thích và thưởng ngoạn ngọn núi đó mà anh muốn làm cho người khác càng thích thú… Là người đi trước và giúp ta tiến lên. Nhưng như bạn biết, người dẫn đường không thay thế bạn được chính bạn phải bước theo. Nếu vì quá mệt lả, bạn từ chối bước cao hơn… Anh ta không thể cưỡng chế tự do của bạn. Anh ta hiện diện ở đó, là để “hướng dẫn” bạn. Lạy Thần Linh Thiên Chúa, ánh sáng dịu dàng. Xin hướng dẫn con, để con không từ chối việc lên núi… một bước…. rồi thêm một bước nữa! để trên bước đường con đi tới, con gặp được những người dẫn đường tình nghĩa huynh đệ mà Thần Khí Chúa đang tác vì, đúng vậy, đúng là một cuộc “chạy đua lên núi cao” Đức tin là cuộc tìm kiếm mầu nhiệm Thiên Chúa! Đó là chóp đỉnh không ai có thể một mình đạt tới cần phải có một “người nào đó” dẫn lên. Cần phải có một ông thầy, một người dẫn đường biết rõ bí suốt nhiều thế kỷ, các Công đồng cố gắng tìm hiểu những lời trên đây của Gioan…và kết thúc bằng cách quả quyết rằng, thực sự’ Thần Khí là một “Đấng nào đó “…là một Ngôi vị… là Đấng hiểu biết mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa từ bên trong, để hướng dẫn con người đạt tới đó Trong bức ảnh diễn tả Chúa Ba Ngôi của Roublev, Thánh Thần là ngôi thứ ba, với khuôn mặt tuyệt đối giống hai ngôi kia, Chúa Cha và Chúa Con. Nhưng trong tư thế đầu Ngài hoàn toàn nghiêng về hai Ngôi kia cách âu yếm để hoàn thành chuyển động của “vòng tròn hoàn hảo” , thì mắt Ngài thực tế lại nhìn về phía trái đất, hướng đến con người đang cầu nguyện trước ảnh tượng, để “mở ra” và “thông truyền” cho con người chính sự chuyển động của Thiên Chúa đó là Tình Yêu!Thần Khí sự thật! Sự thật toàn vẹn!Nhưng coi chừng! khi bàn về Thiên Chúa, sự thật không phải là thái độ tri thức… cũng như’ sự hiểu biết về một con người mà ta muốn yêu thương. Trước hết, không phải là học biết, quan sát, đo nghiệm, đặt dưới ống kính hiển vi… nghiên cứu cách khoa học, như thể ta nghiên cứu một “sự vật” ở đây, thuộc về một lãnh vực khác. Hiểu biết một “Người nào đó” là bước vào mối tương quan với rằng mình là “tín hữu không thục hành”… thì đó là một lời thú nhận quan trọng, nếu người đó ý thức và thực sự đã suy nghĩ kỹ. Một tình yêu nếu không được “thực hành” thì sẽ là gì? Một tương quan với một người nào đó, nếu không thể sống động và thể hiện, thì sẽ ra sao? Lạy Thần Khí sự thật, xin hướng dẫn con tới sự thật “toàn vẹn”!Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy là hình ảnh của tiếng phản dội vào thần trí ta. Giữa Chúa Cha, Đức Giêsu và Thánh Thần, luôn có sự liên tục hoàn hảo. Đó là cùng một tiếng nói lập lại nhiều lần, với cách thức khác nhau. Thánh Thần không nói gì khác về Đức Giêsu cả! Sự thật duy nhất và xác thực về Thiên Chúa, là Đức Giêsu. Mọi sự người ta đã nói trước, và mọi điều Người ta đã nói sau… về Thiên Chúa, mà không phù hợp với những gì Đức Giêsu của Thiên Chúa tỏ lộ cho ta, thì đều sai lầm! Đó là một Thiên Chúa giả! và với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta cần phải điều chỉnh nhiều ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa. “Nếu Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, thì ân sủng và sự thật nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” Ga 1,17 “Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sáng Ga 14,6Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh chúng ta đây biết, Đức Giêsu là Người con hoàn hảo, hoàn toàn hướng về Chúa Cha. Đức Giêsu “không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu Người Con và cho Người Con thấy mọi điều mình làm” Ga 5,19-20. Đó là mầu nhiệm thâm sâu của Chúa Ba Ngôi Mỗi Ngôi là sự thấu suốt trọn vẹn của Ngôi khác. Ở đây, Đức Giêsu mạc khải cho thấy, Thánh Thần bước vào hoạt động thẩm chiếu trọn vẹn đó. Những tương quan yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không có gì là giấu ẩn, là che đậy đóng kín Mỗi Ngôi trong Ba Ngôi không giữ cái gì làm của riêng mình”. Mọi sự đều được chia sẻ, thông ban, hiến tặng… và mọi sự đều được tiếp đón, nhận lãnh! Những lời nói trần gian của chúng ta đều trở yếu kém, để diễn tả tính chất phi thường của mối liên quan liên kết Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Thần. Mọi tương quan nhân loại của ta đều bắt nguồn từ mối tương quan đó! Đỉnh cao không thể vượt qua được về Thiên Chúa, đó là mạc khải về Chúa Ba trước hết, Chúa Ba Ngôi không phải là một thứ ẩn ngữ, một thứ siêu phương trình toán học dành cho những nhà trí thức ưu hạng… Đó chỉ là một thực tại hoàn toàn giản đơn bị che giấu đối với các bậc khôn ngoan thông thái nhưng lại được mạc khải cho những người bé mọn” Mt 11,25. Bởi vì, nói về Thiên Chúa cũng là nói về con người, “được tạo dựng theo hình ảnh và hòa ảnh của Thiên Chúa”. Bé thơ, trẻ mới sinh không biết rằng nó có một gia đình. Nhưng ngay từ những tuần lễ đầu tiên, mơ hồ nó thấy mình được che chở trong một tình yêu thương… Nó cảm thấy quanh mình một tình âu yếm, luôn đáp lại mọi cơn đói khát, mọi tiếng kêu la của nó. Trước hết nó cảm nghiệm tình yêu đó như “một” cái gì lờ mờ, nhưng hoàn toàn mạnh mẽ và thích thú. Bé chỉ cần bật tiếng khóc, là “nó” có mặt ở đó…Với thời gian, cuối cùng thì bé cảm nhận được rằng, sự hiện diện đó có nhiều dạng không hẳn chỉ là “một” tiếng cao và giọng trầm, khuôn mặt mịn như nhung và khuôn mặt lởm chớm những rầu, bàn tay mềm mại và bàn tay sắt thép… Nhiều người đang phải sống cùng một tình thương đó quanh bé, vì bé…” Rey-mermet. Bằng cách đó, những người đơn sơ cũng khám phá ra mầu nhiệm của Gia đình Thiên Chúa nhờ “thực tập” ngày này qua ngày khác…cho tới lúc ở trong Gia sự Chúa Cha có đều là của Thầy , vì thế Thầy đã nói “Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”.Một lời phát biểu gây ngạc nhiên. Trước hết chúng ta hãy để cho lời đó gây bối rối nơi anh thợ mộc làng Nadarét tầm thường, một con người cũng mang xương thịt thấp hèn, thế mà trước ngày bị kết án tử hình bởi những nhà cầm quyền dân sự và tôn giáo của đất nước anh, đã dám cả quyết rằng “mọi sự Thiên Chúa có đều là của anh”.’ Và không chỉ một lần trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã gợi lên sự hiệp nhất lạ lùng như thế giữa Người và Thiên Chúa Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa hữu hình ta có thể nói được như thế! bởi vì quả thực Thần Khí của Đức Giêsu, biểu lộ cách vô biên ngoài tầm mắt của ta. Và Thần Khí, chính là Đức Giêsu – tiếp tục và được lập lại mãi mãi trong tâm hồn con người. Thần Khí phản chiếu Đức Giêsu. Và Đức Giêsu phản chiếu Đức Chúa Cha vô hình. Tôi chiêm ngưỡng sự duy nhất và tính khác biệt này… Đó là sự hiệp thông các ngôi vị “nhiều mà chỉ là một” nguyên mẫu của con người! chương trình hành động cho mọi xí nghiệp, mọi gia đình, mọi xã hội. Đó là một “chóp đỉnh” thực sự mà một phần không thể đạt thấu. Chúng ta có để cho Người “hướng dẫn” ta tới đó không? Lạy Thánh Thần xin hãy đến!21. Chú giải của Fiches DominicalesCHÚA CON Đà SAI THÁNH LINH ĐỂ TIẾP TỤC CÔNG TRÌNH CỦA NGƯỜI Ở TRẦN GIANVÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI1. Từ thời kỳ của Đức giờ Đức Giêsu sắp “phải bỏ thánh giá mà về với Chúa Cha”, ta thấy có hai giai đoạn trường bài diễn từ sau bữa Tiệc Ly.– Thời kỳ của Đức Giêsu, thì các môn đệ không làm sao có sức chịu nổi ” những lời Người.– Thời kỳ của Thánh Linh ” thì chính Người sẽ dẫn dắt các ông tới sự thật toàn vẹn”.X Léon-Dutour quảng giải “Bấy giờ” của bữa tiệc ly đối tương phản với thời kỳ Đấng Bảo Trợ đến; là việc đến này tùy thuộc vào lễ vượt Qua của Chúa Con” “Lecture de L’Evangile de St. Jean “, cuốn 3, Seuil, trg 231.2. Đến thời kỳ của Chúa Thánh Khí này, Đức Giêsu hứa với các tông đồ “sẽ dẫn các ông đến sự thật toàn vẹn “. Việc Chúa Thánh Thần đến soi sáng vào quá khứ của Đức Giêsu, sẽ khiến cộng đoàn các môn đệ của Người hiểu sâu thêm những lời nói và việc làm của người, hiểu để áp dụng và đi vào cuộc sống. Hơn nữa, Người còn cho các môn đệ thông hiệp vào hiện tại của Đức Giêsu, người Con đã được tôn vinh nơi Thiên Chúa và đang muốn thông ban cho các môn đệ chính con người vinh quang của mình.– Thần Khí này, Đức Giêsu phán tiếp “sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”. Để dẫn đến sự thật, Thần Khí “sẽ nói lên” hay là “sẽ diễn tả” điều mà Người nhận từ Chúa Con… X. Léon-Dufour giải thích thêm “Nếu Đức Giêsu ngừng nói bên tai, thì việc Người nói trong tim đồng nghĩa với “mạc khải” vẫn còn tiếp tục nhờ trung gian của Thần Khí. Quả vậy Thần Khí không nói nhân danh quyền năng của mình, cũng giống như Đức Giêsu đã không nói tự ý mình; Thần Khí sẽ nhận từ Đức Giêsu cũng giống như Đức Giêsu nhận từ Chúa Cha 8, 26. Tiếng nói của Thần Khí chắc chắn không đập vào lỗ tai, nhưng thấm sâu tận tâm hồn. Như vậy Chúa Con tiệp tục mạc khải của mình bằng cách thế khác trước, cách thế thần linh”… Chúa Thánh Linh sẽ là người biểu lộ Đức Giêsu vậy”BÀI ĐỌC THÊM1. “Nguồn suối không hề cạn”“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”. Vào lúc ly biệt, những lời kín đáo này phát ra từ môi miệng Đức Giêsu để kết thúc buổi hàn huyên đầy tình hiệp thông. Vấn đề không tại điều muốn nói, mà tại ý nghĩa thẳm sâu nằm ở những lời ấy. Sánh với những gì nằm sâu trong lòng biển cả bao la, thì lời nói cũng chỉ như đám bọt biển trắng xoá trên mặt mà thôi. Điều mà Thầy muốn ban cho anh em, chia sẻ với anh em là những gì tự đáy lòng Thầy, là những gì là sâu xa nhất từ nội tâm phải là Thầy không còn thời giờ, cũng chẳng phải là Thầy còn nói thêm nhiều điều khác. Thầy chỉ mong muốn lặp đi lặp lại mãi mãi điều cốt lõi. Ước chi điều cốt lõi được lặp lại hoài này, luôn có được vẻ tươi mát của buổi bình minh đang xuất tâm Thầy như mạch nước muốn vọt lên nhưng lại không vọt lên được. Điều Thầy muốn nói ra thì lại không thể diễn tả được. Và người nghe không bao giờ có thể hiểu, cũng không thể cảm nghiệm được với ánh sáng và cường độ mà Thầy mong muốn vì điều đó thuộc về Thầy một cách quá lạ thường. Cái “tôi” thẳm sâu này không sao tả xiết.“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”. Nhưng lúc này, như thế là đủ rồi. Không thể nói thêm nữa, là người nghe cũng không thể tiếp thu hơn. Sự truyền đạt từ người này sang người kia kết thúc, vào lúc mối hiệp thông không còn có thể hiệp nhất thêm nữa.“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”. Khi Đức Giêsu tâm sự điều này với các bạn hữu của Người, thì tình Thầy trò thân mật trước lúc chia ly rất phong phú đến nỗi không có thể nói gì hơn lại Người còn có thể mạc khải gì hơn về Người hoặc về Chúa Người chăng? Người chẳng phải là mạc khải đầy đủ về Thiên Chúa rồi đấy sao? Đây không phải một “món hàng tàng trữ” ngủ yên trong tủ sắt, hoặc được nâng niu giữ gìn trong hộp quý. Không đâu, đây là một dòng suối không hề cạn Khí, trong khi giúp người ta hiểu biết và nhìn nhận Đức Gtêsu, sẽ khiến người ta không ngừng đói khát muốn hiểu biết hơn nữa. Thần Khí khơi dậy nơi lòng người tín hữu sự hiện diện của Đấng Phục sinh. Người giúp khám phá sự hiện diện đó là gì, có hệ quả gì trong cuộc sống thường nhật cũng như trong những giờ phút trọng đại của lịch sự hiện diện kín đáo và mãnh sự hiện diện đầy bình an và tình sự hiện diện này là Sự sống. “2. Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải, Người là ai?Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như tất cả những mầu nhiệm đặc biệt kitô giáo, không tự nhiên dễ hiểu đối với những trí tuệ thích lý luận của con người. Mới đây một đứa trẻ đã nói với cha nó rằng “Ba mà cũng còn tin những chuyện ấy à? Phản ứng của đứa trẻ này minh họa rõ ràng cái não trạng vụ khoa học mà ta đã bị thấm nhiễm, và não trạng đó có khuynh hướng chủ trương cái gì có thể kiểm nghiệm được, mới được coi là có nhiên, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm đáp ứng được những ước mơ thâm sâu nhất của nhân loại. Bí mật của thế giới chúng ta không phải là cái gì trừu tượng, hoặc một sức mạnh vô danh tăm tối, nhưng là một tình thương… , có thể nói được rằng ” đó là nhịp đập của ba trái tim thương yêu nhau ” hoặc nói theo ngôn ngữ truyền thống hơn, nhưng cùng một thực lại lạ lùng đó, ta nói Thiên Chúa là ba ngôi vị, nhưng Ba Ngôi là một Chúa duy vậy bạn hãy mở sách Tin Mừng bất kể trang nào, bạn sẽ thấy rằng Đức Giêsu không khi nào đóng vai giáo sư dạy môn tôn giáo hoặc môn triết học. Người đã không hề giảng bài về Chúa Ba Ngôi. Người cũng không bao giờ nói ra từ ngữ đó. Không! Nhưng đơn giản là Người đã sống. Người đã sống như một Người Con. Người chỉ mang trong tim, chỉ nói ra nơi cửa miệng cái tên của lòng yêu thương, các tên của Đấng mà, các trẻ nhỏ Do Thái ngày nay vẫn còn dùng để gọi cha của chúng trên các đường phố ta vừa mới nghe những lời rất đơn sơ của Tin Mừng Mọi sự thuộc về Cha, do thánh Gioan kể lại Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu phiên dịch cách hồn nhiên là à Papa le Bon diêu” thuộc về “Ba” Chúa Trời những gì thuộc về Cha Thầy, là của Thầy. Rồi Người nói tiếp liền ” Thần Khí sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”.Như vậy, cách sử sự và những lời của Đức Giêsu đưa ta vào làm quen với “Ba Ngôi” vừa hoàn toàn tách biệt, tuy nhiên, lại vừa hoàn toàn liên kết nên một. Vâng, Đức Giêsu là Đấng luôn “qui hướng về Đấng khác”.Quả thật, trong suốt lịch sử của nhân loại đi tìm kiếm từ tôn giáo, Đức Giêsu và chỉ một mình Đức Giêsu là người đủ bạo dạn để dám nghĩ rằng Thiên Chúa không phải là Đấng cô đơn, xoay tròn chung quanh mình, giam hãm mình trong một thứ ích kỷ thánh thiêng…, nhưng Thiên Chúa là Đấng khởi nguồn và làm nẩy sinh mối liên hệ yêu Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà LạtTHẦN KHÍ SỰ THẬT1. “Ta còn lắm điều phải nói với các ngươi”. Các nhà chú giải đã phải khổ vì mấy chữ trong 15,15 theo đó thì Chúa Giêsu đã nói tất cả cho các tông đồ. Chắc chắn Ngài đã nói hết cho họ vì Ngài là mạc khải hoàn hảo của Cha và không còn gì mới để Chúa Thánh Thần mạc khải thêm; vì thế đừng đợi chờ một mạc khải nào khác. Tất cả đã được Kitô mang đến vì Ngài là “lời” 1, là “sự cắt nghĩa” Chúa Cha 1,18. Không còn chữ nào có thể thêm vào Lời đó, không còn có thể sửa chữa được điều gì. Nhưng có thể quảng diễn ra dài hơn, trở lại những điều Ngài đã nói để thấu hiểu tường tận thánh Gioan đã dùng phương pháp khai triển kiểu vòng ốc này Nếu Đức Kitô xét rằng nói hết bây giờ cho các tông đồ cũng đều vô ích, mặc dầu họ có nhiều thiện chí, là vì chỉ Thánh thần mới có thể biến họ đủ khả năng quán triệt mạc khải của Thiên Chúa bằng cách làm cho họ biết đón nhận “những điều thần thiêng 1Cr 2,13; như trẻ sơ sinh trong 1Cr 3,1, họ chưa có thể ăn uống gì ngoài Thần khí “sự thật” đến khi mạc khải kết thúc, sẽ hoàn toàn đưa họ vào tận nguồn chân lý. Ngài sẽ hướng dẫn họ khám phá toàn bộ chân lý và chân lý sẽ là con đường sống đối với họ, là qui tắc nội tâm cho cuộc đời của họ Tv 25, 143,10; Kn 9,11; 10,17. Mặc dầu Chúa đã truyền đạt tất cả những điều bí nhiệm cho 15,15, họ vẫn chưa thể hiểu hết được. Để thấu hiểu, họ cần có một phương pháp thích hợp mà khoa sư phạm của Thánh Thần sẽ mang đến. Thánh Thần không phải là thày dạy nhưng là một người lặp lại và giải thích lời giáo huấn của thày thôi. Ngài không tự quyền nói, cũng như Chúa Giêsu cũng như Chúa Giêsu không nói tự quyền mình Ga 3,32; 7,16-17; 8, 15,15 nhưng chỉ mạc khải Chúa Cha để tôn vinh danh Người Ga 12,28; 14,13; 15,8; 17,4-6 Vì thế Thánh Thần không có giáo thuyết riêng. Ngài chỉ đến khơi lại và giúp cho hiểu được mạc khải của Cha được Con 14,26.Khoa sư phạm của Thánh Thần còn có một mục đích khác; soi sáng những biến cố sẽ xảy ra. Vì thấu hiểu mạc khải của Đức Kitô sẽ không ích gì nếu không biết áp dụng vào các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Nhờ ánh sáng của Ngài, môn đệ có khả năng nhận thức họ phải cư xử thế nào cho phù hợp với các hoàn cảnh khác nhau sẽ xảy đến, để điều chỉnh lối sống của họ theo nhân sinh quan và vũ trụ quan Kitô giáo. Người Kitô hữu nhìn mọi sự khác cái nhìn của lương dân vì họ giải thích tất cả bắt nguồn từ biến cố luôn hiện thực của Đức Kitô. Sự chết, sự phục sinh và lên trời của Ngài không phải chỉ là những sự kiện quá khứ đã xong xuôi chẳng còn âm hưởng gì đến thời hiện tại. Các hành vi cứu thế của Đức Kitô vẫn kéo dài từ thời gian này qua thời gian nọ, trong công việc tầm thường hàng ngày cũng như trong những biến động của lịch sử. Gán cho lịch sữ mộ ý nghĩa Kitô giáo, giúp khám phá ra những dấu vết của chương trình Thiên Chúa trong tất cả sự kiện đó “vì tôi đã không e ngại mà dấu giếm đi, để không loan báo cho anh em biết ý định của Thiên Chúa”Cv 20,27, chiếu ánh sáng sống động của mạc khải trên mọi biến cố, vào mọi thời đại đó là sứ mệnh của Thánh thần nơi các môn đệ. Như vậy, Ngài không có tiên báo chi tiết về tương lai cũng như không tường thuật những biến cố làm đề tài của niên sử. Dưới con mắt của Ngài, điều thiết yếu không phải là chỗ đó, nhưng là chiều hướng diễn tiến của kế hoạch cứu nhiên, Thánh Thần sẽ biến tất cả Kitô hữu thành những ngôn sứ. Giống như các ngôn sứ CƯ, bổn phận chủ yếu của họ không phải là tiên báo, nhưng là khám phá ý định Thiên Chúa trong biến cố hiện đại, “đọc các thời triệu”, nhận biết chiều kích riêng của Thiên Chúa đằng sau những biến cố đó. Tất cả mọi biến cố của thế giới, xảy ra từ ngày Chúa Giêsu hiển vinh, đều thuộc về thời cánh chung, cho nên việc thấu hiểu trật tự mới, mà người đàn bà Samarotanô trông đợi nơi đấng Messia 4,25, chỉ có Thánh Thần thông ban mà thôi. Tác giả sách khải huyền đã thử nói tiên tri theo kiểu thế Thánh Thần không mang lại một mạc khải mới, nhưng chỉ liên tục giải thích mạc khải của Đức Kitô để không ngừng soi chiếu các biến cố của thời đại. Thánh Thần liên tục tham chiếu mạc khải của Đức Kitô. Ngài đón nhận tất cả từ Đức Kitô, cũng như Đức Kitô đã đón nhận mọi sự từ Cha. Có một tiếp nối hoàn hảo giũa mạc khải trong Đức Kitô và sự thông hiểu nhờ Thánh Thần. Cả hai đều bắt nguồn từ tất cả những cái đó không cấm giáo hội, dưới ảnh hưởng của Thánh Thần, giải thích không ngừng nội dung mạc khải do Đức Kitô mang đến, phát sinh cái mà các nhà khoa học gọi là “sự tiến triển các tín điều”. Công đồng Vaticanô II đã dạy “Thánh truyền do các tông đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo hội dưới sự trợ giúp của Thánh Thần. Thật vậy, các sự việc và các lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhận những điều đó lòng Lc 2,19 và 51; nhờ sự thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý, do việc kế vị trong chức giám mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ Giáo hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa cho đến khi lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo hội hiến chế mạc khải của Thiên Chúa, số 8.KẾT LUẬN1. Trước khi tiếp tục mùa quanh năm là mùa sẽ kết thúc năm phụng vụ bằng lễ Chúa Kitô Vua. Hôm nay Giáo hội muốn chúng ta thưởng thức mạc khải chính yếu do Đức Kitô mang đến. Qua tất cả những biến cố cuộc đời Ngài mà chúng ta đã cùng nhau sống lại suốt năm phụng vụ này Chúa Giêsu đã dần dần cho chúng ta nhận biết một cách cụ thể mối giây liên lạc giữa Ngài với Cha và Thánh Thần. Chính qua Ngài, chúng ta từ từ tiến sâu vào mạc khải của Thiên Chúa đã tỏ mình ra không như là một hữu thể trừu tượng, một kiến trúc của trí tuệ, hay còn tệ hơn nữa như một người xa lạ. Trong Đức Kitô, người trở nên một người trong chúng ta để chúng ta dễ nhận biết Ngài “Ai thấy Ta là thấy Cha”, Chúa Giêsu đã nói với Philipphê như Trong lời Chúa nghe hôm nay, chúng ta hãy thử tìm hiểu xem Chúa Giêsu nói thế nào về Cha và Thánh Thần, Chúa đã tự mạc khải thế nào cho ta. Đầu tiên, Chúa Giêsu nói đến Cha và Thánh Thần như những ngôi vị riêng biệt khác với chính Ngài. Trong phúc âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nói với các môn đệ “Khi Ngài đến, vì là Thần khí sự thật…”. Chúa Giêsu nói đến Ngài như một ngôi vị thật sự mà người ta đợi chờ, như một Đấng sẽ đến và sẽ hoàn tất một sứ mệnh rõ ràng và lạ ta nhớ lại là đã cùng nhau đọc và suy niệm một vài đoạn trong diễn từ sau Tiệc ly trong các Chúa nhật mùa Phục sinh; trong các đoạn đó, Chúa Giêsu thường nói về Cha và Thánh Thần; chính nơi Cha mà Con qui chiếu mọi dự định của mình và nhận lấy Lời để loan truyền. Con công chính hóa loài người, ban cho họ sự bình an và uỷ cho họ quyền hòa giải. Thánh Thần dẫn đưa những ai đón nhận Con đi đến chân Chính khi nói về các Đấng đó như những ngôi vị tách biệt, Chúa Giêsu cũng nói đến Cha và Thánh Thần như hiệp nhất với Ngài. Ngài cho thấy các đấng đã hiệp nhất với nhau đến nỗi Đấng này sẽ không làm gì nếu không có đấng kia. Trong bài phúc âm hôm nay cũng thấy nói đến sự hiệp nhất Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Thánh Thần chỉ lặp lại giáo huấn của Chúa Giêsu hay khi dạy là Ngài dạy về Chúa Giêsu. Mọi điều Đức Kitô biết và có được đều bắt nguồn từ Cha. Hơn nữa, tất cả những gì Cha biết và có thì Người đã ban cho Đức Kitô đến nỗi mỗi ngôi đều có cái mà ngôi kia có và đồng thời không chiếm hữu một điều gì riêng cho mình. Khi nói đến Cha và Thánh Thần, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy các đấng vừa khác biệt vừa đồng nhất, vừa tách rời vừa hiệp nhất, khi các đấng hành động thì là ba, và đồng thời cũng chỉ có một hiện Khi nói cho chúng ta biết về chính Ngài và về mối tương giao của Ngài với Cha và Thánh Thần, Chúa Giêsu tỏ bí mật tình yêu cho chúng ta, Ngài thỏa mãn những gì mà chúng ta ao ước tự thâm tâm nhưng cảm thấy không thể nào đạt đàng, sự phân biệt các ngôi vị cho thấy sự phân biệt tự trị trọn vẹn của mỗi ngôi. Cho nên có một sự kính trọng tuyệt đối và không có sự lệ thuộc hay thống trị lẫn nhau. Thật vậy ai mà không ước mơ được sự giải thoát khỏi uy lực của kẻ khác? Vì đó chính là điều kiện căn bản để ngôi vị được tự trị và độc lập trọn khác, có sự thông hiệp hoàn toàn của Ba Ngôi với nhau trong mối hiệp nhất. Các đấng không bao giờ làm việc gì mà không có nhau; các Ngài luôn cùng nhau hành động; điều gì ngôi này có thì ngôi kia cũng có; ngôi này là gì thì ngôi kia cũng vậy. Ai mà không ước mơ sự thông hiệp hoàn toàn với người khác, sự hiệp nhất khắn khít đến nỗi không còn ranh giới, đến nỗi thông giao với nhau một cách trọn vẹn, đơn sơ, chân thành. Ở đây chúng ta bắt gặp lại từ ngữ nổi tiếng của thánh Gioan, một từ ngữ mà chưa bao giờ có ai tát cạn ý nghĩa phong phú “Thiên Chúa là tình yêu”. không phải là Thiên Chúa có tình yêu như có ánh sáng, quyền năng hay sự sống. Không! Ngài là tình yêu. Tình yêu là bản chất của Chính giữa lòng cuộc sống hàng ngày và trong mối tương giao với người khác, chúng ta sẽ dần dần bắt chước tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ học cách yêu thương dưới ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu xin Chúa mạc khải cho chúng ta có lòng ước muốn tình yêu đó. Như vậy sự hiểu biết Thiên Chúa sẽ làm tâm hồn ta luôn tràn ngập bình an và hân hoan vui tầm Post Views
CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH Lời Chúa Is 60,1-6; Ep 3, Mt 2,1-12 ——- Mục lục 1. Hãy bừng sáng Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên 2. Ánh sáng của Ngôi Lời Thiên Chúa Jorathe Nắng Tím 3. Niềm tin lên đường Lm. Thái Nguyên 4. Bước theo ánh sáng Lm. Jos Tạ Duy Tuyền 5. Trở nên ngôi sao dẫn đường Bông Hồng Nhỏ, Học viện Đức 6. Niềm vui cho dân ngoại Thiên San, Học viện Đức 7. Khoảng xa khoảng gần Trầm Thiên Thu Mục lục 1. Lên đường, kiên nhẫn và hy vọng Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên 2. Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt 3. Niềm tin một chuyến đi Cố Gm. Giuse Vũ Duy Thống 4. Thành tâm thiện chí sẽ gặp Chúa Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt 5. Tỏa sáng bằng bác ái Lm. Jos Tạ Duy Tuyền 6. Dấu lạ Giêsu Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc 7. Lòng thương xót Chúa được trao ban cho mọi dân tộc Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 8. Ngôi Sao Mai Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 9. Ánh sáng chỉ lòng thương xót Lm. Giuse Trực 10. Lễ Hiển Linh, Lễ của Ánh Sáng Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 11. Tìm và Gặp Trầm Thiên Thu 12. Ơn cứu độ cho muôn dân Ngọc Biển 13. Hãy là sao lạ dẫn đường giới thiệu Chúa Huệ Minh 14. Thiên Chúa tỏ mình Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm 15. Chúa Nhật Lễ Hiển Linh_C Lm. Antôn 16. Nơi Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa muốn hiển linh thứ vinh quang nào? Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB 17. Ánh sao lạ dẫn đường giúp lương dân gặp gỡ Chúa Lm. Đan Vinh HÃY BỪNG SÁNG Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mở đầu bằng một lời hiệu triệu rất long trọng, qua lời ngôn sứ Isaia “Hãy đứng lên, bừng sáng lên, Giêrusalem”. Nội dung của bài sách thánh thứ nhất cho ta thấy một bầu khí sôi động, hùng hồn như lệnh triệu tập của một đại lễ, hay một cuộc tổng động viên. Giêrusalem không còn vẻ tĩnh lặng đơn điệu của ngày thường, mà trở nên điểm quy tụ của cả thế giới. Mọi vương quyền trên thế giới đều đến đây để phủ phục tôn thờ Đấng Tối Cao. Mọi sản vật quý hiếm từ mọi miền đều được chuyển tải về đây để dâng tiến Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài. Những đoàn lạc đà nhiều chưa từng thấy, đến nỗi che rợp đất. Lạc đà là phương tiện giao thông của thời đó. Khi nói đến số lạc đà nhiều như vậy, có nghĩa là khách thập phương đông vô kể, từ muôn phương đang tiến về thành Thánh. Giêrusalem chói ngời, rạng rỡ, như cô dâu được trang điểm kỹ lưỡng, toả hào quang đến mọi miền xung quanh. Vì lý do gì mà Giêrusalem bừng sáng đến thế? Đó là vì Đấng Cứu thế đã xuất hiện. Lời ngôn sứ Isaia bảy trăm năm trước đó đã được ứng nghiệm. Đấng Cứu thế đã hạ sinh. Người là Vua các vua và là Chúa các chúa. Thánh lễ hôm nay được gọi là lễ Hiển Linh. Từ này thường được dùng trong Kinh Thánh Cựu ước để diễn tả việc Thiên Chúa xuất hiện. Mỗi khi Ngài xuất hiện, hoặc để tỏ quyền năng tuyệt đối của Ngài, hoặc để cứu giúp dân Do Thái đang gặp tai ương hoạn nạn. Việc Thiên Chúa hiển linh cũng nói lên sự quan tâm chăm sóc đối với Dân được tuyển chọn. Trong lịch sử Cứu độ, nhiều lần Chúa đã hiển linh để cứu giúp dân Do Thái. Như thế, lễ Hiển Linh giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu là Vua của các vua. Người là Đấng muôn dân mong đợi. Ba nhà đạo sĩ, mà chúng ta quen gọi là ba vua, đã từ phương xa đến để chào kính và tôn thờ vị Vua mới sinh. Ba loại lễ phẩm vàng, nhũ hương, mộc dược cho thấy ba vị này đến từ ba miền khác nhau của phương Đông. Các nhà chú giải Kinh Thánh giải thích vàng là lễ vật tặng các vua chúa ; nhũ hương là lễ vật dâng tiến các thần linh ; mộc dược là thuốc thơm để tẩm liệm thi hài người quá cố, như một lời tiên báo Chúa Giêsu sẽ chịu chết để cứu độ nhân loại. Khi mừng lễ Hiển Linh, Giáo hội cũng giới thiệu cho chúng ta Đức Giêsu là Đấng Cứu độ toàn thể nhân loại. Người cũng là Vua vũ trụ. Vương quốc của Người là vương quốc tình yêu, công bình và bác ái. Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta đã suy tư về tước vị Vua của Chúa Giêsu. Qua Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu, ơn Cứu độ được đề nghị cho toàn thể thế giới, chứ không giới hạn nơi dân tộc Do Thái như quan niệm của Cựu ước. Thực tế hôm nay đã chứng minh trên khắp hoàn cầu, mọi quốc gia và lãnh thổ, Đức tin vào Chúa Giêsu được tuyên xưng và loan truyền. Hệ thống tổ chức của Giáo hội như các Giáo phận, các Dòng tu, các Giáo xứ, các Cộng đoàn đã chứng minh có Chúa hiện diện và điều khiển Giáo hội. Giáo hội của Chúa bao gồm mọi màu da, mọi ngôn ngữ, mọi văn hoá, mọi truyền thống. Giáo hội như một vườn hoa mênh mông với ngàn hương sắc khác nhau. Tất cả đều có chung một Phép rửa, một Đức tin, một Phụng vụ. Chất men Tin Mừng đã thấm nhập nơi mọi nền văn hoá và mọi dân tộc. Thánh Phaolô đã diễn tả trong thư gửi giáo dân Êphêsô như sau Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa muốn » Bài đọc II. Thánh vịnh 71 được hát lên trong phần Đáp ca đã diễn tả tình thương bao la hải hà của Thiên Chúa Người giải thoát bần dân kêu khổ, và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo… Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ”. Tác giả Thánh vịnh cũng ca ngợi vinh quang sáng ngời của vị Tân Vương Triều đại Người, đua nở hoa công lý, và thái bình thịnh trị. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng trái đất ». Đức tin Kitô giáo đã nhận ra vị Tân Vương này là Hài nhi Giêsu sinh hạ tại Bêlem năm xưa. Nếu ơn Cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô có tính phổ quát, thì bất kể ai, nếu thành tâm thiện chí thì đều được Thiên Chúa đón nhận vào gia đình của Ngài. Dưới cái nhìn của người Do Thái, ba nhà đạo sĩ được coi là những người ngoại », nhưng họ có trái tim chân thành và thiện chí đi tìm Chân lý. Các ông đã vượt qua đường trường với bao nguy hiểm, để tìm cho bằng được vị Vua mới sinh. Những khó khăn không làm các ông nhụt chí và bỏ cuộc, kể cả khi không nhìn thấy ngôi sao dẫn đường. Cuộc tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ phần nào phác họa đời sống đức tin của người Kitô hữu chúng ta. Bởi lẽ tin là một cuộc lên đường tìm kiếm liên lỉ, là một chuỗi liên tục những khám phá bất ngờ. Những ai nỗ lực tìm kiếm Chúa sẽ gặp được Ngài. Đức tin trước hết đòi chúng ta phải biết chấp nhận những hy sinh. Các nhà đạo sĩ là những người trí thức uyên thâm. Họ đã chấp nhận rời bỏ quê hương lên đường vì nhận ra thông điệp của ngôi sao lạ. Trong đời sống đức tin, muốn được gặp Chúa, chúng ta cũng phải chấp nhận từ bỏ lối sống không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Khi các nhà đạo sĩ không còn nhìn thấy ngôi sao, họ không nản lòng, nhưng kiên trì tìm hiểu để thấy hướng đi cho mình. Mục đích được gặp vị Vua mới sinh đã cho các ông quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Các ông nêu gương cho chúng ta về sự kiên nhẫn và hy vọng. Quả thế, trong hành trình tìm kiếm Chúa, có những lúc chúng ta cảm thấy nản chí vì những thử thách gian nan. Sự kiên trì và cậy trông chắc chắn sẽ giúp ta tìm thấy Chúa và gặp gỡ Ngài. Khi các nhà đạo sĩ cảm thấy đứng trước ngõ cụt của hành trình tìm kiếm vị Vua mới sinh, các ông đã vào Giêrusalem. Ở đây, các chuyên gia đã khảo cứu Kinh Thánh và tìm được lời giải đáp. Nhờ hướng dẫn trong lời ngôn sứ Mika x. Mk 5,1, các ông tiếp tục lên đường và cuối cùng đạt được điều nguyện ước của mình. Ngày hôm nay, Chúa vẫn đang ngỏ lời với chúng ta trong Kinh Thánh. Nội dung Kinh Thánh là một câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và con người. Muốn tìm kiếm Chúa, ta phải chuyên tâm học hỏi và suy niệm Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường cho chúng ta trên bước đường đời. Chuyên tâm suy niệm và sống Lời Chúa sẽ giúp ta sống thánh thiện trọn lành. “Hãy bừng sáng!”. Đây là lời mời gọi ngôn sứ Isaia gửi đến thành thánh Giêrusalem. Đây cũng là lời nhắn nhủ mà Giáo Hội gửi đến các tín hữu nhân dịp lễ Hiển Linh hôm nay. Đức Kitô là Ánh sáng muôn dân. Thiên Chúa đã phán qua lời ngôn sứ Isaia Này đây Ta đặt con làm ánh sáng muôn dân, để con đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất » Is 49,6. Lời này đã được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Người là ánh sáng trần gian. Người đến để dẫn dắt nhân loại bước ra khỏi u tối của tội lỗi và của quyền lực sự chết. Nhờ Bí tích Thanh tẩy, mỗi Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng của Đức Kitô, để rồi trong cuộc sống thường ngày, họ trở nên ánh sáng, phản ánh sự thánh thiện của Thiên Chúa giữa cuộc đời còn nhiều tăm tối. Trở nên ánh sáng để soi sáng cho bản thân. Trở nên ánh sáng cũng để giúp người khác từ bỏ tội lỗi, nên con người hoàn thiện nhờ thấm nhuần giáo huấn của Chúa Giêsu. Ba nhà đạo sĩ đã nhờ ánh sao soi đường để đến thờ lạy Hài nhi Giêsu, Vua muôn dân. Ơn gọi của người tín hữu là trở nên ngôi sao toả sáng trong cuộc đời. Chúng ta đang sống trong Giáo Hội, tức là sống trong thành thánh Giêrusalem mới. Nếu cá nhân mỗi tín hữu toả sáng, thì Giáo hội của Chúa cũng sẽ toả sáng và làm điểm quy tụ cho muôn dân hướng về. Thưa anh chị em, như ba nhà đạo sĩ, chúng ta hãy đến thờ lạy Chúa Giêsu, tôn vinh Người là lý tưởng của cuộc đời chúng ta. Nhờ lòng yêu mến và chuyên tâm tuân giữ Lời Chúa Giêsu, chúng ta sẽ trở nên giống như Người. Đó là vinh dự, đồng thời cũng là bổn phận của người Kitô hữu trong bối cảnh cuộc đời hôm nay. Về mục lục ÁNH SÁNG CỦA NGÔI LỜI THIÊN CHÚA Jorathe Nắng Tím Hầu như ai cũng thích ánh sáng và sợ bóng tối căn phòng sáng sủa vẫn thích hơn góc tối mù u, nắng ấm ban mai vẫn thích hơn những ngày vắng bóng mặt trời, và không gì ngao ngán, bực bội hơn những buổi tối cả khu phố bị cúp điện, và nhà nhà, người người phải chìm trong bóng tối. Nhưng không phải ánh sáng nào cũng chiếu sáng, ngọn đèn nào cũng ấm áp, vui tươi, vì có những ánh sáng làm chói mắt, những luồng sáng làm sợ hãi, run rẩy, những ánh đèn làm thui chột, mù lòa như ánh sáng phẫn nộ từ đôi mắt đe dọa của cán bộ chấp pháp, như luồng sáng trấn áp, khai thác lột trần từ những bóng đèn cao thế trong phòng hỏi cung, tất cả như muốn lập tức đốt cháy cuộc đời nghi can. Khác với những ánh sáng khủng bố, tiêu diệt, các bài đọc phụng vụ trong lễ Hiển Linh hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giêsu là Ánh Sáng muôn dân, Ánh Sáng cho muôn dân được thấy đường ngay nẻo chính, Ánh Sáng cho mọi người được nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, Ánh Sáng soi đường chỉ lối cho nhân loại tìm gặp Thiên Chúa là Nguồn Vui vĩnh cửu, Hạnh Phúc đời đời. Và Ánh Sáng của Ngôi Lời Thiên Chúa ấy đã được loan báo từ hàng ngàn năm trước trong Cựu Ước qua miệng các ngôn sứ, như ngôn sứ Isaia đã tuyên sấm “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi” Is 60,1-2. Chính ánh sáng vinh quang của “Thiên Chúa làm người” đã toả chiếu và bao phủ các mục đồng trong đêm Giáng Sinh và dắt họ đến gặp Hài Nhi “sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ” Lc 2,12; chính ánh sáng vinh quang của “Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” đã hướng dẫn các đạo sĩ từ phương xa đến Bêlem bái lậy Đấng Kitô, Đức Vua dân Do Thái, đồng thời mở lối mới cho các vị trở về nhà an toàn, mà không trở lại Giêrusalem gặp vua Hêrôđê, vì ông này có lòng dạ nham hiểm đã sắp đặt kế hoạch truy lùng, sát hại Hài Nhi Giêsu, phòng xa nguy cơ bị tiếm ngôi x. Mt 2,1-12. Thánh Phaolô, người có kinh nghiệm thiêng liêng rất đặc biệt về Ánh Sáng của Thiên Chúa, trên đường bách hại các người theo đạo. Sách Công vụ Tông Đồ kể lại “Đang khi ông đi trên đường và đến gần Đamát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với ông “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Ông nói “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người đáp “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” Cv 9,3-5. Ánh sáng ấy đã biến đổi ông từ kẻ bách hại các Kitô hữu trở thành Tông Đồ Dân Ngoại. Nhờ kinh nghiệm bản thân được ánh sáng kêu gọi và biến đổi, tông đồ Phaolô là người hiểu rõ hơn ai hết “mầu nhiệm Đức Kitô”, mà chính thánh nhân đã khẳng định khi viết “Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Kitô thế nào” Ep 3, 4, và mầu nhiệm ấy chính là “Trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” Ep 3,6. Vâng, Lễ Hiển Linh là lễ của Ánh Sáng, lễ tràn ngập Ánh Sáng của Ngôi Lời Thiên Chúa toả chiếu vinh quang của Ngài trên tất cả chúng ta. Ngài là Ánh Sáng thế gian x. Ga 8,12, Ánh Sáng muôn dân, muôn nước, “Ánh Sáng soi đường cho dân ngoại” Lc 2, 32, Ánh Sáng của Lời Hứa cứu độ, Ánh Sáng cảnh tỉnh, thương xót, chữa lành, xóa tội, như Ngài đã ban ánh sáng cho người mù bẩm sinh. Và chính Ngài là Ánh Sáng làm cho chúng ta được biết Ngài, trở lại với Ngài, yêu mến và hiệp nhất với Ngài trong một Thân Thể là Hội Thánh, đồng thời biến đổi chúng ta thành những người mang ánh sáng của Ngài cho đời tăm tối, và làm chứng Ngài là Ánh Sáng của Tình Yêu thương xót, cứu độ. Xin Ngôi Lời Thiên Chúa ban cho tâm hồn mỗi người chúng ta Ánh Sáng bình an của Ngài, như lời hứa của Đấng Cứu Thế nhân hậu được các thiên thần hát giữa ánh sáng huy hoàng của vinh quang Thiên Chúa trong đêm Giáng Sinh “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dứới thế cho người Chúa thương” Lc 2,14. Về mục lục NIỀM TIN LÊN ĐƯỜNG Lm. Thái Nguyên “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” Ga 3,16, nên Ngài không chỉ tỏ mình cho dân Israel, mà còn tỏ mình cho mọi dân nước, để ai tin thì đều được đón nhận ơn cứu độ. Đoạn Tin Mừng hôm nay kể về các nhà chiêm tinh đi tìm kiếm Đấng cứu tinh vừa mới giáng sinh, họ như đại diện cho các dân ngoại nhận ra dấu chỉ lạ lùng của thiên nhiên. Matthêu viết theo lối văn khải huyền của người Do thái, nên không thể hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen. Tuy nhiên, Thiên Chúa có thể dùng sự xuất hiện của một vì sao để báo hiệu cho các nhà chiêm tinh biết Con Ngài đã chào đời. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nhận thấy lời mời gọi lên đường để tìm kiếm vị Cứu Chúa của muôn dân. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả để bước đi trong đêm tối, chỉ còn dựa vào ánh sao của niềm tin khi tỏ khi mờ. Họ chỉ gặp được Chúa sau khi trải qua nhiều gian nan thử thách trên đường, và chỉ nhận ra Chúa với cái nhìn đức tin mạnh mẽ, nhất là khi đứng trước cảnh hang lừa tồi tàn. Thiếu đức tin, người ta vẫn thấy Chúa nhưng không nhận ra Ngài. Các nhà chiêm tinh từ ngàn dặm xa xôi đã lên đường tìm ấng Cứu Thế, đang khi Hêrôđê và hàng lãnh đạo Do thái giáo cũng được báo tin, thì lại bình chân như vại. Bởi lẽ các luật sĩ hay biệt phái chỉ thao thức về lề luật; các thượng tế chỉ lo nghi lễ trong đền thờ; các kỳ lão chỉ bận tâm về truyền thống. Họ là những người lãnh đạo tôn giáo nhưng lại tự mãn và khép kín trong những cơ chế an toàn và cứng nhắc. Còn vua Hêrôđê thì toan tính để khai trừ vị vua mới sinh. Thời nay vẫn có những triết gia chủ trương bất khả tri, coi Thiên Chúa chỉ là một phạm trù siêu việt, nếu Ngài có hiện hữu thì cũng không ăn nhập gì đến thế giới loài người. Vẫn có những nhà khoa học và những người chủ trương vô thần phủ nhận những gì là thần linh, họ cho điều huyền nhiệm cũng chỉ là huyền thoại. Vẫn không thiếu những kẻ có quyền thế tìm cách trù dập chân lý. Đối với họ, vũ trụ thiên nhiên như một đối tượng để nghiên cứu và khống chế, chứ không mang tính siêu nhiên, càng không như một dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng cũng trong thời đại này, dù không là Kitô hữu, vẫn có biết bao người đang rong ruổi tìm kiếm Thiên Chúa. Có ánh sáng nào đó soi chiếu trên đường đời của họ, khiến họ miệt mài phục vụ trong mọi lãnh vực, nhằm nâng cao đời sống tinh thần và góp phần kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn, hướng con người đến những giá trị tâm linh, vĩnh cửu. Còn chúng ta thì sao? Nếu không tỉnh thức, ta dễ tự mãn với những điều mình hiểu biết về Thiên Chúa, chẳng còn thao thức tìm Ngài, nên cũng chẳng quan tâm gì đến những dấu chỉ hay thời điềm. Dường như đời sống đức tin đã được gói gọn trong các câu kinh và nghi thức. Những gì sâu xa nhất cũng đã được hệ thống hóa trong các cử hành phụng vụ, nên ta cảm thấy quá đầy đủ, không cần nhận ra Chúa nơi điều gì khác. Cần có lòng khao khát chân lý và sự thiện hảo như các nhà chiêm tinh, để ta can đảm ra khỏi mình, ra khỏi những an toàn và tiện nghi đang trói buộc mình hằng ngày, để thấy Chúa đang tỏ mình qua mọi biến cố của đời sống. Trong ý nghĩa đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi các tín hữu hãy ra khỏi chính mình để tìm đến với tha nhân “Theo Chúa Giêsu, có nghĩa là học cách ra khỏi chính mình, để đi gặp tha nhân… nhất là những người xa cách nhất, những người bị lãng quên, những người đang cần được cảm thông, cần an ủi, giúp đỡ… Theo Chúa Giêsu, đòi ta phải ra khỏi lối sống đức tin mệt mỏi chỉ theo thói quen, ra khỏi cám dỗ co cụm trong những khuôn khổ của mình, và rốt cuộc là khép kín với chiều kích hoạt động đầy sáng tạo của Thiên Chúa”[1]. Vì thế, Đức Thánh Cha mạnh mẽ khuyến khích chúng ta“Hãy lên đường cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Kitô”[2]. Cầu nguyện Lạy Chúa! Chúa không chỉ tỏ mình cho Israel, mà còn tỏ mình cho mọi dân mọi nước, Chúa vẫn làm sáng lên những ánh sao, không phải chỉ ở trên trời cao, mà chính yếu là trong lòng người thế, để cho thiên hạ luôn biết nẻo tìm về. Chúa đặc biệt tỏ mình cho những ai, có tâm hồn đơn sơ và ngay chính, biết sống công bình và bác ái yêu thương, không quá vấn vương bám víu vào trần thế, không bị đam mê và lắng lo kiềm chế, để sống cuộc đời trong tâm thế hồn nhiên. Như các nhà chiêm tinh đi tìm Chúa, xin cho con biết ra khỏi mình, ra khỏi định kiến và lười biếng tinh thần, ra khỏi tiện nghi và tự mãn bản thân, để nhận ra Chúa nơi đời sống tha nhân, và qua dấu chỉ của thiên nhiên vạn vật. Xin cho con dám sống niềm tin lên đường, luôn can trường và chấp nhận đau thương, để sau khi vượt qua nhiều gai chướng, được gặp Chúa ở cuối cuộc hành hương, là niềm vui hạnh phúc chốn thiên đường, mà lòng con vẫn hằng luôn mong ước. Cho con nên dấu chỉ của Chúa ở mọi nơi, là ánh sao giữa đời trong đêm tối, để âm thầm luôn dẫn lối đưa đường, là ánh sao hiền lành và khiêm nhượng, ánh sao phục vụ với tất cả tình thương, tỏa sáng an bình của Chúa Giáng Sinh. Amen. — [1] Buổi tiếp kiến chung đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô 27-3-2013. [2] Đức Thánh Cha Phanxicô Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, s. 48. Về mục lục BƯỚC THEO ÁNH SÁNG Lm. Jos Tạ Duy Tuyền Khi còn nhỏ, chúng ta học cách xua đi bóng tối bằng cách vặn ngọn đèn lên. Đèn càng sáng thì bóng tối càng bị đẩy lùi. Ánh sáng còn xóa tan những sợ hãi do không gian tăm tối mang lại. Quy luật tự nhiên là ánh sáng và bóng tối không thể cùng lúc chiếm ngự cùng một chỗ. Một là chúng ta ở trong bóng tối, hai là ở trong ánh sáng. Và trong thế gian này, bóng tối thì không bao giờ ở xa. Nó luôn luôn ở ngay bên cạnh, chờ đợi cơ hội để xâm chiếm. Bóng tối có khi đồng lõa với sự dữ. Bóng tối của không gian làm cho con người trì trệ và ngưng mọi hoạt động. Bóng tối của sự dữ làm cho con người sợ hãi có khi mất lý trí, ý chí và tự do. Điển hình là bóng tối của Covid đã và đang bao trùm trái đất suốt hai năm qua. Bóng tối Covid gây bao đau thương của chết chóc, chia ly. Bóng tối của Covid để lại bao tổn thương tinh thần lẫn vật chất. Nhân loại lúc này đang cần ánh sáng để đẩy lùi sự dữ. Nhưng lực bất tòng tâm. Ánh sáng con người vẫn chưa đủ để xua tan bóng tối của sự dữ. Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy cùng Ba Vua bước theo ánh sao dẫn chúng ta tìm gặp Đấng là Ánh Sáng cho trần gian. Vâng, Hài Nhi mới sinh ra trong Đêm Cực Thánh chính là Ánh Sáng, là Lửa Trời mà các ngôn sứ đã tiên báo trong Is 601, “Giêrusalem! Hãy đứng lên! Hãy bừng sáng, bởi ánh sáng của ngươi đã xuất hiện. Vinh quang của Thiên Chúa [giờ đây] như bình minh chiếu tỏa rạng ngời trên ngươi”. Ánh sáng nơi máng cỏ Belem đã mang lại niềm vui cho Ba Vua để họ bước ra khỏi bóng tối của u mê, của lầm lại để đến với ánh sáng chân lý và sự thật. Khi Ba Vua lên đường vẫn gặp những cản trở của bóng tối nhưng họ kiên trì vượt qua. Điều quan trọng là sau khi đã gặp Đấng cứu thế thì họ đã chuyển sang lối khác mà về. Nghĩa là không còn đi trên con đường cũ của bóng tối sự dữ. Mừng lễ Chúa hiển linh xin Chúa soi sáng cho chúng ta can đảm bước ra khỏi bóng tối của lòng mình còn đầy tham sân si và tội lỗi. Xin cho chúng ta cũng biết đi theo ánh sáng của Chúa để ra khỏi những bóng tối của phe nhóm, bè phái để sống hiệp nhất và yêu thương. Chúa giáng sinh luôn mời gọi con người hãy để ánh sáng của Chúa bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Hãy bước ra khỏi bóng tối để nhờ có ánh sáng sẽ thay đổi đời sống. Nhờ ánh sáng con người được sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Và nhờ ánh sáng của Ngôi Lời Thiên Chúa chúng ta được chữa lành mọi thương tích tội Adam để trở nên con cái của Chúa. Nhờ ánh sáng của Chúa sẽ xua tan bóng tối của sự dữ đang bủa vây chung quanh. Đồng thời cũng hãy trở thành kẻ dẫn đường cho anh em bước đi trong áng sáng của Tin mừng Chúa. Mừng lễ Chúa hiển linh chúng ta hãy xin ánh sáng của Chúa xua tan bóng tối sự dữ Covid trên địa cầu. Xin Chúa mang lại ánh sáng bình an và hy vọng cho cuộc đời chúng ta. Amen Về mục lục TRỞ NÊN NGÔI SAO DẪN ĐƯỜNG Bông Hồng Nhỏ Hôm nay, ta được theo chân của ba nhà chiêm tinh tìm đến bái lạy Hài Nhi Giêsu. Hành trình đi tìm Chúa của ba nhà đạo sĩ hôm nay cho ta nhiều bài học. Tin Mừng cho thấy ba nhà chiêm tinh đã thấy ngôi sao ở phương đông. Ngôi sao xuất hiện là một điềm báo lạ lùng. Họ hứng khởi ra đi, lòng tràn đầy hy vọng, tràn đầy tin tưởng mình sẽ gặp được một vị vua vĩ đại vừa mới sinh. Ngôi sao dẫn đường cho họ. Đường nhiều gian nan, khó khăn nhưng họ vẫn ra đi. Tin Mừng không nói rõ là họ đã đi trong bao lâu nhưng ta cũng có thể hình dung những khó khăn mà họ gặp phải đường xa, có đoạn đường bằng phẳng và cũng có lắm đoạn gập ghềnh sỏi đá; có lúc trời mát mẻ nhưng cũng có những ngày trời nắng nóng hay mưa rơi; có khi bước đi mà ánh mắt dõi nhìn ngôi sao dẫn đường nhưng cũng có khi phải lần trong đêm tối. Họ không biết rõ điểm đến của mình ở đâu. Họ chỉ có ngôi sao trên trời dẫn lối. Trời và đất thì cách xa ngàn trùng nhưng họ vẫn chẳng chùn bước chân. Mặt đất rộng bao la, đâu sẽ là nơi họ sẽ dừng chân? Nói khác đi, đâu mới là nơi có Hài Nhi hiện diện? Đây là bài học đầu tiên ta nhận được, đừng dừng bước vì những khó khăn nhưng cứ hướng lên ánh sao mà đi. Họ gặp rất nhiều người nhưng chẳng ai biết tin về vị vua mới sinh. Cuối cùng họ đã đến thành Giêrusalem, vào đúng dinh của vua Hêrôđê. Họ hỏi về vị vua mới sinh. Tin mừng ấy khiến cho vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem thì xôn xao. Vua Hêrôđê liền triệu tập những kinh sư đến để hỏi xem vua mới sinh phải sinh ra ở đâu. Các kinh sư mở Kinh Thánh trích dẫn chính xác “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời” Mt 2, 5-6. Vua Hêrôđê như ngồi trên đống lửa, ngai vàng của ông đang bị đe dọa. Ông bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” x. Mt 2, 7-8. Con đường dẫn đến với Hài Nhi mới sinh chỉ in dấu chân của ba nhà chiêm tinh, và chỉ có họ mới thực sự được gặp Đấng họ hằng khao khát kiếm tìm. Bài học thứ hai ta nhận được là sau hành trình gian khổ, ta sẽ gặp được điều ta mong đợi. Trong cuộc đời mình, ta cũng nhận thấy có những ngôi sao dẫn đường, giúp ta tìm đến với Chúa. Ngôi sao đầu tiên đó chính là mẹ của ta. Chính mẹ là ngôi sao đầu tiên đưa ta đến với Chúa. Bằng chính đời sống đạo đức, những yêu thương âm thầm, mẹ đã dạy ta những lời kinh đơn sơ, mẹ cõng ta đến nhà thờ, mẹ gieo vào tâm hồn ta ước mơ sống đời tu. Lúc ta gặp khó khăn trong việc học, chính mẹ là người đã động viên ta, thắp lên ước mơ trong lòng ta, để ta không bỏ dở việc học. Mẹ luôn âm thầm đi phía sau để nâng đỡ từng bước chân của ta. Ngôi sao thứ hai đó chính là người cha đã khuất của ta. Người đã luôn nhắc ta chỉ một điều “Bám vào Chúa nghe con, đừng buông ra”. Ngôi sao ấy đã khuất bóng nhưng ánh sáng vẫn chiếu rọi nơi tâm hồn ta, đưa ta tìm về bên Chúa mỗi ngày. Bước vào đời tu, ta được hướng dẫn và đồng hành từ những vị huấn luyện, các ngài như những ngôi sao sáng chỉ lối cho ta tìm gặp Chúa. Dù cho nhiều lúc trời mưa hay bão tố, ngôi sao bị che khuất thì ta vẫn luôn tin rằng, kiên trì bước theo Chúa ta sẽ gặp được Người. Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã dùng ngôi sao để chỉ dường cho ba nhà chiêm tinh, cho họ được đến thờ lạy Chúa. Chúa đã tỏ mình cho dân ngoại được biết. Chúa mời gọi con hãy tìm kiếm Chúa mỗi ngày, và trở nên một ngôi sao dẫn đường cho người khác tìm đến với Chúa. Bằng chính đời sống chứng tá khiêm nhường phục vụ, yêu thương tha thứ của mình, con sẽ chiếu sáng như vì sao xưa kia đã dẫn đường cho những nhà chiêm tinh đến thờ lạy Chúa. Con được đọc và hiểu Kinh Thánh, con có khao khát tìm kiếm Chúa nhưng con phải đi xa hơn nữa, đó là lên đường như ba nhà chiêm tinh. Bao lâu con biết nỗ lực vượt qua mọi gian nan, kiên trì tìm kiếm Chúa thì chính Chúa sẽ tỏ mình cho con, cho những người đang sống cùng con. Amen. Về mục lục NIỀM VUI CHO DÂN NGOẠI Thiên San “Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Câu hỏi của các nhà chiêm tinh đến từ phương Đông đã làm náo động cả thành Giêrusalem và nhất là làm náo động tâm hồn vua Hêrôđê. Các ông đã theo dấu của “ngôi sao lạ” để thực hiện một hành trình dài. Cuối cùng, “ngôi sao lạ” dẫn họ đế tận nơi Hài Nhi ở. Họ liền sấp mình thờ lạy Người x. Mt 2, 1-12. Qua sự kiện các nhà chiêm tinh từ phương Đông tìm đến bái lạy vị vua mới sinh, chúng ta có thể thấy rằng, Tin Mừng Giáng Sinh là tin mừng dành cho dân ngoại. Hành trình của họ quả gặp nhiều khó khăn. Chỉ một dấu từ “ngôi sao lạ”, họ mạnh dạn thực hiện một cuộc hành trình dài. Điều gì đã thôi thúc họ làm điều đó? Họ vào hoàng cung để hỏi tin tức. Dĩ nhiên, sự thường thì vua chúa phải sinh ra trong cung điện, đền đài của vua. Điều đó thật dễ hiểu. Tưởng chừng như họ có thể gặp được Vị Vua mới sinh nhưng họ đã không tìm thấy vị vua ấy nơi cung điện của vua chúa. “Xin quý ngài đi dò hỏi tưởng tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi để tôi cũng đến bái lạy Người” Mt 2, 8. Sau khi được vua Hêrôđê ngỏ lời như vậy, họ liền ra đi. Họ tiếp tục đi dưới sự dẫn đường của “ngôi sao lạ”, lòng mừng rỡ vô cùng x. Mt 2, 10. Không tìm thấy Vị Vua mới sinh ở đền đài vua chúa, các ông lại được gặp một Hài Nhi mới sinh nơi máng cỏ nghèo hèn. Thật khó tin, Vua mà lại sinh nơi nghèo hèn đến thế. Vừa bước vào cửa, mùi ẩm mốc, mùi của các súc vật, rơm rạ bốc lên. Không một chút do dự, họ liền tiến đến và bái lạy Người. Chúng ta có thể hình dung được khung cảnh lạ lùng này không? Họ mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến Mt 2, 11. Không biết, đã bao lần họ thực hiện chuyến đi tương tự. Có thể, mỗi lần nhìn thấy một “ngôi sao lạ” xuất hiện, họ đều thực hiện một chuyến đi như thế. Nhưng chuyến đi lần này thật đặc biệt. Đặc biệt về nơi chốn và cách thức vị vua được sinh ra. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa nên đã đi lối khác mà về xứ mình. Khi theo dõi hành trình của ba nhà chiêm tinh, chúng ta như được hòa mình vào niềm vui của họ. Con Một Thiên Chúa, Vị Vua mới hạ sinh tỏ mình ra cách đơn sơ nghèo hèn nơi máng cỏ Bêlem. Chúng ta được mời gọi đi sâu hơn vào kinh nghiệm gặp gỡ với Vị Vua ấy trong biến cố Giáng sinh để cảm nhận được tình yêu bao la Ngài dành cho mỗi người chúng ta. Tình yêu ấy không chỉ dành cho một ít người, một vài dân tộc nhưng dành cho cả nhân loại. Thiên Chúa nhân từ đến trần gian nhưng sự thật là Ngài đã bị từ chối. Như lời thánh Gioan đã từng nói “Người đã đến nhà mình nhưng ngời nhà chẳng chịu đón nhận” Ga 1, 11. Trong hoàn cảnh này, có thể nói, các nhà chiêm tinh đã an ủi Thiên Chúa của chúng ta biết dường nào khi họ diễn tả được lòng yêu mến, ái mộ của mình qua một chuyến đi đầy vất vả. Thiên Chúa đã đến với dân ngoại và phải chăng Người đã được họ đón nhận? Chúng ta tiếp tục được mời gọi nhìn về hành trình cuộc đời của mình. Chúng ta có đang hăm hở đến với Thiên Chúa mỗi ngày? Ngài vẫn luôn đến với mỗi người chúng ta qua nhiều cách thức khác nhau. Thỉnh thoảng, Ngài dùng các dấu lạ để hướng dẫn chúng ta hệt như “ngôi sao lạ” đã dẫn các nhà chiêm tinh vậy. Có khi, Ngài âm thầm, đơn sơ nhỏ bé, khiêm tốn đến với chúng ta qua bí tích Thánh Thể. Chúng ta có đang khao khát đi đến để được đón rước Người mỗi ngày? Mỗi khi không nhận đợc một “dấu lạ” nào của Ngài, chúng ta có kiên trì để tiếp tục cuộc hành trình như các nhà chiêm tinh? Khi đã gặp được Ngài, chúng ta đừng ngần ngại, hãy dâng lên Ngài những gì mình có. Ngài sẽ thương đón nhận của lễ mọn hèn của chúng ta. Bởi chúng ta cũng là dân ngoại được Thiên Chúa đoái thương, là “ôliu dại đã được tháp nhập vào đó và cùng được hưởng sự sống dồi dào từ rễ cây ôliu chính” x. Rm11, 17. Về mục lục KHOẢNG XA KHOẢNG GẦN Trầm Thiên Thu Sao Thiêng Dẫn Đường Tới Hang Đá Đạo Sĩ Theo Hướng Tìm Thánh Nhi Khoảng cách xa hay gần là một khái niệm, không nhất thiết giống nhau – dù nghĩa đen hay nghĩa bóng. Về không gian, chỉ vài km có khi người ta lại cảm thấy xa hơn cả ngàn km. Cụ thể như giữa năm 2021, khi dịch bệnh lên tới đỉnh cao, cả hàng chục ngàn người phải tháo chạy khỏi Saigon mà người ta không hề ngần ngại, mặc dù đường đi cách trở – có người đi trăm km, có người đi cả ngàn km; có người phải lội bộ, có người đi xe đạp hoặc chiếc xe máy “cùi” mà thôi. Thấy mà ngán ngẩm, nhưng với họ cũng chỉ là “chuyện nhỏ.” Cái khó ló cái khôn. Khi xác định vấn đề và quyết tâm, người ta không e ngại hoặc lo sợ gì nữa, nhất là khi bản năng sinh tồn thức dậy. Khi muốn thì người ta tìm ra phương tiện, khi không muốn thì người ta tìm ra đủ lý do để thoái thác và biện hộ. Điều đó đã được chứng minh. Ngày xưa, có những con người khôn ngoan thông thái đã thực sự quyết tâm khi nhận ra một ánh sao rất lạ lùng. Chúng ta quen gọi họ là ba vua, nhưng thật ra không chỉ có ba người mà nhiều người, họ không phải là những quốc vương mà là các đạo sĩ, chiêm tinh gia, người khôn ngoan,… ở các nơi khác nhau từ Đông phương xa xôi. Họ đã phát hiện và theo dấu Ánh Sao Lạ đến diện kiến Vương Nhi Giêsu cùng với Song Thân của Ngài tại hang đá Belem đơn nghèo. Họ đã làm những gì cần làm quên mình và tiến dâng những gì quý giá nhất. Người ta thông tuệ nhờ tìm hiểu và học hỏi để biết những gì cần thiết, không cần biết những gì không cần thiết. Khôn và dại đôi khi bị hiểu lẫn lộn. Triết gia La Rochefoucauld nói “Có ba thứ ngu dốt không biết điều phải biết, biết không rõ ràng điều đáng biết, và biết điều không nên biết.” Hiểu và biết “gần” nhau mà khác nhau. Hiểu nhưng có thực hiện hay không, đó mới thực sự là vấn đề. Tốt hay xấu là nguyên do bởi chính mình. Dựa vào Phúc Âm thứ nhất – Tin Mừng theo Thánh sử Mátthêu, và các nghiên cứu về lịch sử tôn giáo, có các chi tiết và các điểm khác biệt từ câu chuyện về các đạo sĩ. Có 4 điểm chính cần biết để hiểu [1] Họ là người Ba Tư đến từ vùng đất bán thần thoại Shir – liên quan Trung quốc cổ đại. [2] Không chỉ ba mà cả chục đạo sĩ đến viếng thăm Hài Nhi Giêsu. [3] Ba đạo sĩ được mô tả là hậu duệ của Seth, con trai thứ ba của Ông Tổ Adam. Theo quy ước, người ta đồng ý gọi tên họ là Balthasar, Gaspar và Melchior. [4] Họ thuộc một giáo phái có niềm tin vào việc cầu nguyện thầm lặng nên đã chờ đợi rất lâu để có thể nhận thấy Ngôi Sao Lạ xuất hiện, và họ tin đó là dấu hiệu báo về một vị Thiên Tử. Lịch sử là lịch sử. Sự thật là sự thật. Vấn đề quan trọng là TIN NHẬN Hài Nhi là Thiên Chúa, là Chúa Tể càn khôn, một trẻ sơ sinh nhưng là Đấng tạo dựng muôn loài và chính mình – dù chúng ta đã già nua rồi. Như Gioan Tẩy Giả xác định “Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” Ga 115 và 30 ĐẾN NƠI CẦN ĐẾN Thiên Chúa đã hứa ban Ngôi Con từ ngàn xưa, và giờ đây Ngôi Hai xuất hiện. Lời hứa ứng nghiệm tỏ tường. Là tội nhân, nhưng chúng ta được Đức Giêsu tháo gỡ gông cùm tội lỗi và phục hồi cương vị là con cái Chúa. Ngôn sứ Isaia kêu gọi “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” Is 601-2 Thế thì thật hạnh phúc – đối với cả nhân loại và riêng từng người. Niềm vui khôn tả! Không chỉ vậy, tội nhân chúng ta còn được Ngài quan tâm đặc biệt “Con trai từ phương xa tới, con gái được ẵm bên hông.” Is 604 Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Belem kia lại chính là Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng, là Đấng Cứu Thế. Ngài đến để giao hòa đất trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.” Tv 726 Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, nhưng Thiên Vương Giêsu lại ĐẾN ĐỂ PHỤC VỤ chứ không được phục vụ. Ngài đến KÊU GỌI tội nhân sám hối ăn năn, Lc 532 TÌM và CỨU những gì đã mất, Lc 199 và BAN SỰ SỐNG dồi dào cho mọi người. Ga 1010 Nhân loại không thể hiểu cách Ngài thực hiện nhưng đó là sự thật minh nhiên, vả lại tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của chúng ta không phải là đường lối của Ngài. Is 558 Chính Hài Nhi bé nhỏ nơi máng cỏ kia là Tạo Hóa, triều đại Ngài rực rỡ những đóa công lý và thái bình thịnh trị vĩnh viễn, Tv 727 mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước phụng sự Ngài. Tv 7211 Ngài toàn năng nhưng rất nhân từ, luôn theo sát đồng bào, tận tụy với đám dân nghèo, công lý và sự thật được bảo vệ tới cùng, để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ.” Tv 7212-13 Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa. Các hiền triết nhận biết có một “dị nhân” vừa xuất hiện, họ không quản ngại đường xa, mau mắn và quyết tâm lên đường tìm kiếm. Chính ánh sao đã dẫn đường và dừng lại trên một hang chiên lừa xơ xác. Không ai có thể ngờ được, nhưng họ đã tin thật đó là Đấng họ muốn tìm kiếm. Chúng ta thật may mắn, không phải đoán già đoán non vì đã được biết đó là mầu nhiệm. Thánh Phaolô cho biết “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô.” Ep 32-3 Thật đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh tông đồ và ngôn sứ của Người.” Ep 35 Và mầu nhiệm đó là trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa. Ep 35-6 Một lần nữa, chúng ta lại thật may mắn và hạnh phúc vì được thừa kế gia nghiệp của Thiên Chúa, nên một thân thể và cùng chia sẻ với Ngài. Khắp nơi ánh sáng tỏa lan Ánh Sáng Ngôi Lời. Ngôn sứ Isaia hân hoan mời gọi “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” Is 601-2 Ánh bình minh xua tan bóng đêm đen, ánh sáng tiêu diệt bóng tối. Điều đó chỉ có thể là ánh sáng vĩnh cửu, ánh sáng đến từ Thiên Chúa. 2. LÀM VIỆC PHẢI LÀM Thời đó là lúc vua Hêrôđê trị vì miền Giuđê. Các đạo sĩ đến Giêrusalem và hỏi “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Mt 21-2 Nghe vậy, vua Hêrôđê kinh ngạc, cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Là vua nên Hêrôđê sợ có kẻ nổi loạn để tiếm ngôi, ông liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có nói về miền đất Giuđa, nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel sẽ ra đời.” Mt 26 Thế là vua Hêrôđê bí mật vời các đạo sĩ và hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi ra vẻ tốt lành “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy thì về báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” Mt 28 Nghe nhà vua nói thế, họ an tâm ra đi mà không hề biết vua Hêrôđê có mưu đồ đen tối. Họ không chỉ là những người thông thái mà còn giàu có. Họ thấy Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai người nghèo và lũ chiên lừa mà họ vẫn không thất vọng, vẫn thực sự mãn nguyện. Y như truyện cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó là sự thật minh nhiên. Và rồi họ đã dâng những lễ vật cao quý nhất mà họ đã chuẩn bị sẵn sàng. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Họ đã nỗ lực tìm kiếm Chúa Giêsu, gặp và tin, can đảm vào đời, tìm cách tránh “ác nhân” Hêrôđê, nỗ lực hành động tích cực và sống tốt lành. Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh dữ” mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha nhân – và cho chính mình. Kinh Thánh cho biết “Một ánh sáng rạng ngời sẽ chiếu soi khắp mười phương đất; từ viễn xứ, người trăm họ kéo đến với ngươi. Và dân cư tận chân trời góc biển sẽ tới hát mừng danh thánh Chúa, tay bưng lễ vật dâng tiến Vua Trời. Muôn thế hệ sẽ làm cho ngươi hoan hỷ, và tên ngươi, thành được Chúa chọn, sẽ lưu truyền hậu thế đến ngàn năm.” Tb 1313 Belem bé nhỏ nhưng chợt hóa thành nơi tràn ngập ánh sáng kỳ diệu – ánh sáng của Hồng Ân, của Đức Tin, của Yêu Thương, của Lòng Thương Xót, của Hòa Bình, của Chân Lý, của Hạnh Phúc, của Sự Sống, của Vĩnh Cửu, của Công Lý, của Tự Do,… Belem bé nhỏ mà vĩ đại vì là nơi Thiên Chúa chọn để Đấng Thiên Sai giáng sinh làm người và thực hiện kỳ công cứu độ của Ngài. Thực sự vô cùng nguy hiểm đối với kẻ vừa ngu ngốc vừa thâm độc mà lại có quyền hành nữa. Hêrôđê mưu mô vì sợ người khác “chạm” đến cái ngai vàng của mình, vì cái ghế đó liên quan quyền lực và lợi lộc. Thời nay cũng chẳng thiếu những dạng người hoặc bóng dáng như Hêrôđê. Họ là những kẻ có mặt người mà dạ thú, chỉ sợ mất chức, mất quyền, tìm mọi cách “cố thủ” để bảo vệ “chiếc ghế” chứ chẳng có ý tốt lành gì, cố ý giữ phần tư lợi chứ chẳng là phục vụ người khác. Loại người Hêrôđê ngày nay còn độc ác và nguy hiểm hơn chính Hêrôđê ngày xưa. Biết mà làm như không biết đối với những kẻ khoác lác thì đó là khôn ngoan thực sự. Các đạo sĩ không chỉ khôn ngoan, thông thái, mà họ còn thành tín với tầm nhìn đức tin rất sáng chói và sâu xa, bởi vì họ thực sự tin nhận Hài Nhi Giêsu là Ánh Sáng Thật, Nguồn Sống Thật, Thiên Chúa Thật. Đúng vậy, Hài Nhi Giêsu là Vị Cứu Tinh duy nhất của nhân loại. Với niềm xác tín, Thánh Piô Năm Dấu đã cầu nguyện “Xin Chúa đến tái sinh trong linh hồn con và ở lại mãi mãi.” Lạy Thiên Chúa nhân lành và toàn năng, xin ban tầm nhìn tâm linh cho chúng con, để chúng con thấy Ngài nơi mọi người, nhất là nơi những con người đau khổ; xin giúp chúng con theo chân các đạo sĩ đi tìm Chúa và hành động cụ thể; xin thanh lọc tâm trí chúng con để không lây nhiễm mọi sự dữ, biết phân định đúng ý Ngài. Lạy Mẹ Maria và Thánh Giuse, xin nguyện giúp cầu thay suốt chặng đường đời lữ hành. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Hài Đồng, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen. Về mục lục LÊN ĐƯỜNG, KIÊN NHẪN VÀ HY VỌNG Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Belem, những người đầu tiên được đón tiếp Chúa là Đức Maria, Thánh Giuse và các mục đồng chăn chiên. Họ đều là những người Do Thái. Tuy thế, ơn Cứu độ mà Đức Giêsu mang đến cho nhân loại không chỉ dành cho người Do Thái, mà được dành cho tất cả nhân loại trên thế giới. Cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông đã nói lên điều đó. Chính vì vậy mà lễ này được gọi là lễ Hiển Linh, tức là Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân. Đây vừa là nỗ lực tìm kiếm của các đạo sĩ, vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa gửi đến các ông để các ông đến tôn nhận vương quyền của Đấng Cứu thế. Ngôi sao lạ chính là biểu tượng của lời mời gọi đó. Vào thời mà tác giả thư Do Thái gọi là “thời sau hết” này, Thiên Chúa không “hiển linh” trong ánh vinh quang và trong tiếng sấm chớp vang rền như thời Cựu Ước. Ngài tỏ mình dưới dạng một hài nhi thơ bé mới sinh, con của một gia đình nghèo nàn không tìm được quán trọ. Với ánh sao chỉ đường, ba nhà đạo sĩ đã “nhìn thấy” nơi Hài Nhi này là Vua và là Đấng Cứu độ. Họ đã đến thờ lạy Hài Nhi. Họ đã vượt đường xa dặm thẳm để đến với Belem. Cuộc gặp gỡ với Hài Nhi Giêsu đã làm họ thỏa mãn và quên hết mệt mỏi của chặng đường dài. Cuộc tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ phần nào phác họa đời sống đức tin của người Kitô hữu chúng ta. Bởi lẽ tin là một cuộc tìm kiếm liên lỉ, là một chuỗi liên tục những khám phá và những bất ngờ. Những ai nỗ lực tìm kiếm Chúa sẽ gặp được Ngài. Đức tin trước hết đòi chúng ta phải biết chấp nhận những hy sinh. Các nhà đạo sĩ là những người trí thức uyên thâm. Họ đã chấp nhận rời bỏ quê hương lên đường vì nhận ra thông điệp của một ngôi sao. Trong đời sống đức tin, muốn được gặp Chúa, chúng ta cũng phải chấp nhận từ bỏ lối sống không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Khi các nhà đạo sĩ bị lạc đường, họ không nản lòng, nhưng kiên trì tìm hiểu để thấy hướng đi cho mình. Mục đích được gặp vị Vua mới sinh đã cho các ông quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Các ông nêu gương cho chúng ta về sự kiên nhẫn và hy vọng. Quả thế, trong hành trình tìm kiếm Chúa, có những lúc chúng ta cảm thấy nản chí vì những thử thách gian nan. Sự kiên trì và cậy trông chắc chắn sẽ giúp ta tìm thấy Chúa và gặp gỡ Ngài. Chúa vẫn đang ngỏ lời với chúng ta trong Kinh Thánh. Nội dung Kinh Thánh là một câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và con người. Muốn tìm kiếm Chúa, ta phải chuyên tâm học hỏi và suy niệm Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Khi các nhà đạo sĩ cảm thấy đứng trước ngõ cụt của hành trình tìm kiếm vị Vua mới sinh, các ông đã vào Giêrusalem. Ở đây, các chuyên gia đã khảo cứu Kinh Thánh và tìm được lời giải đáp. Nhờ hướng dẫn trong lời ngôn sứ Mika x. Mk 5,1, các ông tiếp tục lên đường và cuối cùng đạt được điều nguyện ước của mình. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường cho chúng ta trên bước đường đời. Chuyên tâm suy niệm và sống Lời Chúa sẽ giúp ta sống thánh thiện trọn lành. Thiên Chúa là Chúa của muôn loài. Ơn Cứu độ nhờ Đức Giêsu được ban cho hết mọi người, không có ai bị loại trừ. Mọi người đều được quyền đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu. Mọi người đều có quyền được tiếp nhận vào gia đình của Thiên Chúa. Nơi người Do Thái xưa kia cũng như nơi số đông người Kitô hữu hôm nay, vẫn tồn tại một quan niệm lệch lạc về giá trị của ơn Cứu độ. Họ nghĩ rằng ơn Cứu độ chỉ dành cho những người ưu tuyển. Vì thế mà họ coi thường những người không cùng tôn giáo với mình. Qua việc Đức Giêsu tỏ mình cho ba nhà đạo sĩ, Thiên Chúa khẳng định tính chất hoàn vũ của ơn Cứu độ. Điều này được diễn tả trong Bài đọc I. Ngôn sứ Isaia được chiêm ngưỡng ngày huy hoàng của Giêrusalem. Ngày ấy, người khắp nơi sẽ tuôn về Thánh Đô. Các dân tộc, các nền văn hóa đều quy hướng về Chúa, các loại sản phẩm tượng trưng cho sự phong phú đang dạng của các dân tộc đều được dâng cho Chúa. Điều mà ngôn sứ Isaia thấy, phần nào đã được thực hiện trong thời đại của Giáo Hội hôm nay. Quả vậy, từ mọi dân tộc, mọi nền văn hóa, danh Thiên Chúa được tôn vinh ca ngợi. Việc lễ Giáng Sinh được cử hành long trọng trên toàn thế giới đã cho thấy sự huy hoàng mà ngôn sứ Isaia đã thị kiến “Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi Giêrusalem… chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi…”. Khắp nơi trên toàn thế giới, các Kitô hữu trong những lễ nghi phụng vụ đều dâng lên Chúa những sản phẩm quý giá của địa phương, để tôn nhận Ngài làm Đấng Sáng Tạo và Chúa tể muôn loài. Việc tôn thờ và dâng tiến của lễ được ba nhà đạo sĩ thực hiện năm xưa, như một nghi lễ mở màn để dẫn tới phụng vụ thánh của ngày hôm nay trên toàn thế giới. Thiên Chúa là Cha yêu thương. Ngài muốn cứu rỗi mọi người và mọi tạo vật. Đó là điểm nhấn trọng tâm trong giáo huấn của Đức Giêsu. Trong Mùa Giáng Sinh, giống như các đạo sĩ, chúng ta hãy đến thờ lạy vị Vua mới sinh và dâng cho Người tấm lòng đơn sơ chân thành của chúng ta. Hãy tôn nhận Người là Chúa của chúng ta, để rồi việc gặp gỡ Chúa trở nên mối ưu tiên hàng đầu, và như thế, những bận rộn lo toan cuộc đời trần thế không làm chúng ta nản chí và ngã lòng. Sau khi gặp gỡ và thờ lạy Chúa Giêsu, ba nhà đạo sĩ đã “đi lối khác mà về xứ mình”. “Đi lối khác” là kết quả của cuộc gặp gỡ với vị Vua mới sinh. “Đi lối khác” cũng là để tránh gặp Hêrôđê đang manh tâm tìm cách xuyên tạc và phủ nhận sự thật. Người tín hữu, sau khi mừng lễ Giáng Sinh cũng cần đi lối khác để về nhà mình, nghĩa là đoạn tuyệt với lối sống cũ còn đầy khuyết điểm, gian tham và ích kỷ. Đó chính là một cuộc lên đường mới, trong kiên nhẫn và hy vọng, để sống đức tin và loan báo Đức Giêsu cho mọi người xung quanh chúng ta. Về mục lục . CHÚNG TÔI ĐÃ THẤY NGÔI SAO CỦA NGƯỜI Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi sao của Chúa Giêsu. Có thể không ngôi sao nào trên trời dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhưng nếu chúng ta đã đến được với Chúa Giêsu thì cũng nhờ một hay nhiều ngôi sao nào đó dẫn đường. Có thể là cha mẹ, một người bạn, một quyển sách, một biến cố… Điều quan trọng là chúng ta biết đọc những tín hiệu. Giữa trăm ngàn đĩa phim, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể xem được và phân biệt được phim về Chúa Giêsu với các phim khác. Giữa trăm ngàn đĩa ca nhạc, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể nghe được và phân biệt được đĩa thánh ca với các đĩa khác. Đầu đĩa ấy có thể là vũ trụ, có thể là Hội Thánh. Đặc biệt là Thánh Kinh. Nhưng điều cốt yếu vẫn là tôi phải xem, phải nghe. Thiên nhiên và lịch sử không bao giờ thiếu những ngôi sao tín hiệu để con người đến được với ánh sáng. Chúa Giêsu là ánh sáng. Một khi đến được với Chúa Giêsu, chính chúng ta được soi sáng và trở thành những ngôi sao dẫn đường cho người khác. Trong lịch sử đã từng có những vì sao sáng rực thánh Phêrô, thánh Gioan, thánh Phaolô, thánh Têphanô, thánh Inhaxiô Antiôkia, thánh Âutinh, thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Phanxicô Assisi, thánh Phanxicô Xavier, thánh Têrêxa, thánh Anrê Dũng Lạc, thánh Philipphê Phan Văn Minh, thánh Matthêu Lê Văn Gẫm, thánh Anê Lê Thị Thành… Ngay trong thời đại chúng ta cũng không thiếu những vì sao thánh Maximilianô Kolbe, chân phước Têrêxa Calcutta… Và ngôi sao sáng chói trong mọi thời đại Mẹ Maria. Chung quanh chúng ta vẫn có những người đang đi tìm một ngôi sao dẫn đường. Chính chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi nhận lấy ánh sáng của Chúa để trở thành một ngôi sao, cho bạn bè, cho con cái, cho hàng xóm láng giềng. Có thể chúng ta chỉ là một ngọn đèn dầu, nhưng vẫn hữu ích cho một ai đó đi tìm nguồn sáng trong một đêm tăm tối. Lạy Chúa Giêsu, Ánh Sáng thần linh giữa trần gian, luôn ban cho chúng con cũng như mọi người những ngôi sao dẫn đường. Về mục lục . NIỀM TIN MỘT CHUYẾN ĐI Gm. Giuse Vũ Duy Thống Phúc Âm hôm nay rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy kịch tính của những khách lạ phương xa từ ngạc nhiên khám phá ngôi sao lạ, qua xáo động tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi dắt díu nhau lặng lẽ tìm đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện trên màn ảnh những cuộc đối đầu càng lúc càng thêm căng thẳng giữa chính diện và phản diện, giữa lo sợ của bên này và thanh thản của bên kia, giữa tìm gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như í ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào và của những người được coi là gần nhưng chỉ biết bàn ra. Nhưng giữa những chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất dài và rất xa ấy, người ta thấy lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến đi với những đặc tính tiêu biểu 1 Niềm tin một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa. Những vai chính trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem “triều bái Vua dân Do Thái mới sinh” được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác nhau, lúc thì gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng được Vua vì những của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn thấy ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ là những người thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt những phương tiện đang có để tìm gặp chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt. Khởi điểm cuộc hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình thường ai cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận. Tương tự, niềm tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên Chúa dành cho hết mọi người, nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành chí thiện, họ mới có thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên đường khởi sự chuyến đi. Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng lâu đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một phen bước theo ánh sáng trời cao, ra khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước lữ hành. 2 Niềm tin một chuyến đi biết chấp nhận những thử thách Là hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp không ngơi nghỉ của con người, để vượt qua những thử thách và kinh qua những thử luyện được xem là những thách đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không chỉ là chuyện “thức lâu mới biết đêm dài” để con người chứng minh sức bền tin tưởng tháng năm, mà còn là chuyện “lửa thử vàng gian nan thử đức” trong những lúc Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc “ba Vua toan mất hướng, ánh sao bỗng vụt lặn”. Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối diện với âm mưu chủ ý của những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm chí còn gài bẫy ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy chiếu Thánh Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi dụng để toa rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư trong dân. Đêm Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó của Iran chẳng những không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa thành phố. Chúa như vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an mà tại Bêlem chính nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc. Chúa như vắng mặt. Se lòng. Thử thách đối với đức tin như gió đối với lửa gió thổi tắt lửa yếu, nhưng làm bừng lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những thử thách trong cuộc sống niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con người, mà là những cơ hội để con người chứng minh phẩm chất niềm tin. Niềm tin không thử thách niềm tin dễ dàng; niềm tin thất bại trước thử thách niềm tin dễ dãi; niềm tin chấp nhận thử thách mới là niềm tin đích thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu chút nào. 3 Niềm tin chuyến đi biết đón nhận đồng hành Không phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là lễ Ba Vua, có nơi kể tên các vị đến hàng chục theo kiểu đồng bằng sông Cửu Long thì còn có cả chục 12, chục 16 cơ đấy, nhưng chừng như hữu ý cho thấy niềm tin không phải là cuộc đơn hành mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng hành, không chỉ vì lý do “càng đông càng vui” mà vì giới luật yêu thương là biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng là cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt đức tin. Con người thời nào cũng thế, không thích bị chinh phục bởi giáo điều nhưng lại tự nguyện buông mình chịu khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu thương nhau quá trời đến nỗi người ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo “Đạo yêu nhau”, tức là những người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương. “Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn”, tín hữu đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ nhau, nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang đá rồi, phải dìu nhau lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo là đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều trái, tàn sát thê lương, “giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh”. Con đường khác ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng đã có bạn bè thân quen bên cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà dấn bước. Giống như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản thân cá nhân “Tôi tin”, nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh tuyên tín “Chúng tôi tin”. Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành. Tóm lại, dựa vào hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển Linh để phác vẽ niềm tin như một chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa mình vào biến cố Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ mình của Ngài thì tín hữu cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình biết. Như thế niềm tin mới là chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và đó cũng là những hình ảnh sinh động mang tính hiển linh của kẻ tin trước mắt người đồng thời, giống như hình ảnh của những vai chính trong chuyến đi hôm nay ở bước truy tìm họ được mệnh danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới đích với lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua. Về mục lục . THÀNH TÂM THIỆN CHÍ SẼ GẶP CHÚA Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra. Việc Chúa sinh ra được loan báo cho mọi người biết dưới nhiều hình thức khác nhau như lời các ngôn sứ loan báo từ nhiều thế kỷ trước, đạo binh thiên thần ca hát, ngôi sao lạ xuất hiện… Tuy nhiên không phải ai cũng gặp được Chúa. Có những người không gặp Chúa, dù biết rõ những chỉ dẫn về Người. Đó là những kinh sư, biệt phái. Họ hiểu biết Thánh Kinh. Khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi thăm, họ đã đọc vanh vách lời ngôn sứ loan báo Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem. Nhưng họ không gặp được Chúa, vì họ hiểu biết lý thuyết mà không thực hành. Ngồi một chỗ mà không chịu lên đường. Chỉ chú ý tới chữ nghĩa sách vở mà không chú ý tới cuộc sống con người. Chỉ tìm trong sách vở mà không tìm những dấu chỉ trong đời thường. Đó là Hêrôđê. Bạo vương này muốn tìm Chúa nhưng không gặp Chúa, dù ông có binh hùng tướng mạnh trong tay. Ông không gặp Chúa vì ông tìm Chúa không phải vì Chúa mà vì quyền lợi của ông. Ông tìm Chúa không phải để thờ lạy nhưng để giết chết. Ông tìm Chúa không phải để tôn vinh Chúa nhưng để tôn vinh bản thân. Ông tìm Chúa không phải để làm theo ý Chúa nhưng để bắt Chúa phải theo ý ông. Vì thế Chúa đã vượt thoát khỏi tầm tay của ông. Vĩnh viễn ông không gặp được Chúa. Những người xem ra gần gũi nhất, hiểu biết nhất, có phương tiện nhất đã không gặp được Chúa. Trái lại, những người có vẻ nghèo hèn, thiếu thốn phương tiện, xa xôi cách trở lại gặp được Chúa. Đó là các mục đồng và đặc biệt ba nhà đạo sĩ mà ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay. Họ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết lời tiên tri loan báo, không biết lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước. Họ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận biết. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho ra. Họ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám. Đời sống đạo của tôi cũng là một cuộc đi tìm Chúa. Tôi sẽ chỉ gặp được Chúa nếu tôi noi gương ba vua, có tâm hồn đơn sơ thành thực, có lòng khao khát Chúa vì chính Chúa, và dám dấn thân thực hành những điều Chúa truyền dạy, đặc biệt là giới răn bác ái, phục vụ Chúa trong những anh em nghèo khổ. Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của Chúa. Amen. KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG 1 Tại sao những kinh sư, biệt phái và Hêrôđê không gặp được Chúa? 2 Có những người ngoại đạo thành tâm thiện chí như ba vua. Bạn đã gặp ai như thế chưa? Bạn nghĩ gì về họ? 3 Muốn gặp Chúa, bạn phải làm gì? 4 Ba vua nhờ ngôi sao dẫn đến gặp Chúa. Bạn phải làm gì để trở thành ngôi sao đưa người khác đến với Chúa? Về mục lục . TỎA SÁNG BẰNG BÁC ÁI Lm. Jos Tạ Duy Tuyền Có một bài hát sinh hoạt đã diễn tả con người như là một ánh sao sáng cho nhau. “Đếm ánh sao đêm tôi gọi người. Hồng xanh xanh hồng xanh trắng xanh. Ngôi sao xanh kia chính là anh. Ngôi sao vàng chính là chị đây. Không có ngôi sao nào là ngôi sao đen”. Thực vậy, sao thì phải tỏa sáng. Sao có nhiệm vụ phá tan bóng đêm thì đương nhiên sẽ không có ngôi sao đen. Cuộc đời con người là “nhân chi sơ tính bản thiện” thì cũng phải tỏa sáng bằng những việc tốt, việc thiện. Con người đi trong tối tăm của sự ác, của tội lỗi là con người đang đánh mất căn tính thiện của mình. Con người chỉ là người khi sống theo lẽ phải, theo luân thường đạo lý mà Thượng Đế đã an bài. Là người ky-tô hữu, Chúa Giê-su còn mời gọi chúng ta phải tỏa sáng bằng hành động yêu thương “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng yêu thương nhau”. Yêu thương không phải trên đầu môi chót lưỡi, nhưng yêu thương biến thành hành động phục vụ. Việc phục vụ bác ái như màu cờ sắc áo, như ngọn đèn chiếu tỏa để mọi người xung quanh nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Phục vụ theo tinh thần ky-tô giáo là phục vụ vô vị lợi, phục vụ quảng đại mà không cần đền đáp như trong lời Bài Ca Phục Vụ, tác giả Mi Trầm đã trình bày “Phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ơn nghĩa không chờ”. Phục vụ với tinh thần là cho không, là quên mình ấy quả thực là một ngọn đuốc thiêng chiếu sáng cho thế gian còn đầy bóng tối của ích kỷ, của chia rẽ, của hận thù. Ba Vua năm xưa đã nhờ ánh sao để đến triều bái Chúa. Muôn dân hôm nay rất cần ánh sao yêu thương nơi người tín hữu tỏa sáng để dẫn dắt anh em đến với Chúa. Nhưng tiếc thay, cuộc sống của chúng ta vẫn chưa phản chiếu tình yêu của Chúa ra bên ngoài. Chúng ta đã sống thiếu tình yêu, thiếu lòng bác ái, bao dung với nhau. Chúng ta vẫn còn mang thù hận, ghen tương với nhau. Nhiều người vẫn chưa có thiện cảm với đạo Công giáo vì chúng ta chưa sống tin mừng qua việc xây dựng tình hiệp nhất, công lý và bình an. Chúng ta vẫn sống chia rẽ, lỗi công bình, gây mất bình an qua lời nói châm chọc, kết án, bỏ vạ cáo gian anh em mình. Đời sống của chúng ta dù ít dù nhiều luôn có ảnh hưởng trên người khác. Nhất là các bậc cha mẹ, thầy cô luôn tác động mạnh trên lối sống của con trẻ. Có biết bao gương lành của người lớn đã làm nên những con người phi thường cho nhân thế. Nhưng cũng có biết bao gương xấu của cha mẹ hay các nhà giáo dục đã làm cho biết bao con người sa đoạ hay lạc lối. Xã hội luôn cần gương sáng để đẩy lùi bóng tối. Xã hội luôn cần những ánh sao sáng cho bầu trời thêm trong xanh. Xin cho đời sống chúng ta luôn là ánh sao dẫn về chân thiện mỹ tình thương. Xin đừng để những lối sống tội lỗi của chúng ta trở thành gương mù cho anh em. Amen. Về mục lục . DẤU LẠ GIÊSU Lm. Jos. DĐH Mạo hiểm để hy vọng sớm nổi danh nổi tiếng, hoặc có chí khí làm ăn để thoát nghèo, những thành phần như vậy ở đâu chúng ta cũng gặp. Cất bước lên đường tìm kiếm danh, lợi, thú, khao khát gặp “bụt thần” để xin điều ước, chắc chắn vẫn còn là câu chuyện “thời sự” đối với xã hội hôm nay. Ra trường đời “cọ sát” với thật-giả, tốt-xấu, mưu-mô, tranh đấu-bình đẳng…., cho đến khi biết trở về với cõi lòng mình, phải chăng được như thế là nhờ gặp thấy dấu lạ ? Ba đạo sĩ từ Đông phương lên đường tìm kiếm dấu lạ, không phải vì mưu cầu vật chất, không có ý củng cố sức mạnh tinh thần, nhưng họ vẫn phải đối diện với nguy hiểm, lung lạc mục đích khám phá dấu lạ. Các vị Đạo sĩ nhờ được trang bị số kiến thức cần thiết để biết nhìn trời, nhìn sao, nhất là đủ khôn ngoan, để không bỏ lỡ cơ hội xem bằng mắt, bắt bằng tay dấu lạ Hài Nhi. Các mục đồng, các đạo sĩ, không thể tự biết tìm đến Belem, nếu không có dấu lạ chỉ đường, cả triều thần Hêrôđê và chúng ta hôm nay, đều cần đến sự tác động của dấu lạ mang tên Giêsu. Quyết định làm một chuyến hành hương tới Belem, ngoài ý chí, nghị lực, các đạo sĩ còn cần có thao thức và ước muốn dấn thân, lên đường. Thực ra, tới Belem không phải chỉ có một con đường, hang đá ở nhà thờ, ở gia đình và hang đá ở cõi lòng mỗi người vẫn là nơi thích hợp hơn cả, để con người gặp gỡ Hài Nhi Giêsu. Điều kiện chung cho xưa và nay vẫn là khao khát chân lý, là thể hiện được niềm tin như các nhà đạo sĩ, như các mục đồng. Hôm nay đây, bằng mắt đức tin, bằng tinh thần cầu nguyện, người ta vẫn sáng lên niềm vui, hạnh phúc, khi chấp nhận để tình yêu Giêsu đi vào mọi ngõ ngách đời mình. Nhiều người cho rằng một con én không làm nên mùa xuân; nhưng chỉ cần một tác động nhỏ của lắng nghe, nhiều xung đột vẫn được hàn gắn, hóa giải. Nhờ dấu lạ từ điềm trời, các mục đồng, các đạo sĩ, họ được dẫn tới Belem gặp gỡ Hài Nhi, chỉ đơn giản như vậy, nhưng tâm hồn của họ khi nhìn, xem, thấy “Trẻ Giêsu”, đều hiểu đó là dấu lạ tình thương, là ơn cứu độ. Cảnh cơ hàn ở Belem năm xưa được nồng ấm lên nhờ tình người, ở đó không ồn ào náo nhiệt do mưu kế làm ăn, nhưng âm hưởng chúc tụng tôn vinh được chung nhịp với tiếng hát thiên thần vang hòa. Hài Nhi Giêsu đã trở dấu lạ Tin Mừng cho người nghèo khó, Hài Nhi Giêsu biến đổi các đạo sĩ từ người “đứng chót” thực sự lên hàng đầu nhận biết ơn cứu độ. Dấu lạ từ Belem đã tỏa ánh quang cho khắp muôn dân nhận biết Ngôi Lời Nhập Thể Làm Người, qua các mục động và các đạo sĩ “hang đá Belem”, “tình yêu cứu độ” bắt đầu mở ra cho muôn dân thiên hạ. Mắt sáng tinh thông là cơ may cho con người, nhưng tỏ tường đến độ dám làm một hành trình “thờ lạy Vua người Do-thái”, hẳn không phải là tình cờ, mà trước hết là nhờ tinh yêu. Ngày hôm nay, việc gặp gỡ thờ lạy Giêsu không cần phải có kiến thức “thiên văn”, không cần phải hàng đêm nhìn lên bầu trời trông chờ “sao lạ”. Đúng hơn, “dấu lạ Giêsu” đang biến mọi đối tượng trở nên tình yêu của Ngài. Các mục đồng, các đạo sĩ phát hiện dấu lạ từ trời, họ đều nhanh chóng lên đường, và rồi họ thật vui mừng hạnh phúc khi gặp Hài Nhi. Mỗi chúng ta hôm nay, khi phát hiện Đức Giêsu là tình yêu bởi trời, nhất định phải khẩn trưởng gặp gỡ Ngài, nếu không niềm vui ơn cứu độ rồi cũng chỉ là chuyện tưởng tượng, chóng qua mà thôi. Ngày hôm nay, người Kitô hữu được soi dẫn làm việc bổn phận đối với Chúa và Hội Thánh, nhưng nếu thiếu đi sự quyết tâm, chúng ta cũng chỉ là những luật sĩ biệt phái sống trong chờ đợi theo ý mình, lý thuyết mơ hồ. Gặp được niềm vui, thấy được con đường dẫn tới hạnh phúc là mừng, nhưng nếu không dấn thân để có Chúa để được biến đổi, để đức tin trở thành hành động, thì hoàn toàn vô ích, thất bại. Muốn gặp Hài Nhi Giêsu, các đạo sĩ không thể ngồi nhà ung dung chờ đợi, các ngài đã lên đường, đã hành động bằng lý trí của người trưởng thành. Hành trình của các đạo sĩ có lúc sao ẩn, sao hiện, nhưng dấu lạ của tình thương không thay đổi, dù chặng đường gặp Hài Nhi của chúng ta hôm xưa và hôm nay có gian truân khác nhau. Thiên Chúa yêu thương loài người, các đạo sĩ đến Belem họ có vàng, mộc dược nhũ hương, các mục đồng đến Belem chỉ có tấm lòng, do đó bất cứ thành phần nào, đến gặp Chúa đều vui mừng hạnh phúc với tình yêu cứu độ. Con vua thời được làm vua, chúng ta thường nghĩ như thế, nhưng tiền nhân chúng ta còn cho biết có chí thì nên, có tâm thì được. Đó phải là thao thức lên đường gặp gỡ Chúa, dù hành trình mỗi người có khổ đau, hiểm nguy giăng mắc có khác nhau, nhưng tình yêu vẫn là động lực, là dấu chỉ tự do của mỗi người. Cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta chính “dấu lạ Giêsu”, khi mà mỗi chúng ta đều làm cuộc lên đường chia sẻ, giúp nhau gặp gỡ tình yêu ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng nhân loại. Amen. Về mục lục . LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA ĐƯỢC TRAO BAN CHO MỌI DÂN TỘC Lm. Giuse Đỗ Đức Trí Có một giai đoạn, nhiều người nghĩ rằng, Thiên Chúa là độc quyền của người tín hữu. Vì thế, các sinh hoạt tôn giáo gần như là sinh hoạt khép kín trong những người đồng đạo. Trải qua một thời gian dài, người Công Giáo chỉ sống thu mình trong các sinh hoạt của mình, xem nhẹ việc bổn phận giới thiệu Chúa cho anh chị em dân ngoại, vì quên rằng, Thiên Chúa cũng là Chúa của mọi dân tộc. Ngày nay, đại lễ Chúa Giáng Sinh đã trở thành ngày vui chung của nhiều người, nhiều dân tộc, trong đó, nhiều người dù không tin, hoặc không theo Chúa vẫn cảm nhận được niềm vui mỗi khi lễ Giáng sinh về. Công đồng Vaticano II đã thúc đẩy Giáo hội bước ra ngoài với thế giới và để thế giới có thể dễ dàng bước vào Giáo hội. Thiên Chúa không còn là điều cấm kỵ, nhưng được giới thiệu dưới nhiều hình thức để mọi người có thể nghe biết về Thiên Chúa. Đặc biệt những năm vừa qua, các vị chủ chăn đã không ngừng mời gọi, thúc đẩy mọi tín hữu phải đi ra khỏi sự êm ấm, khỏi nếp sống cũ, thói quen cũ của mình để đem Chúa đến với anh em. Thiên Chúa không bao giờ chịu dừng chân, Ngài cũng không chấp nhận bị nhốt kín trong các nghi lễ. Lòng thương xót của Thiên Chúa không bị giới hạn bởi những người có đạo, nhưng lòng thương xót của Ngài còn được tuôn đổ xuống trên tất cả mọi người, kể cả những người chưa biết Chúa. Lễ Chúa Hiển Linh hôm nay muốn nhấn mạnh đến tình thương và lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với toàn dân, tình yêu thương của Thiên Chúa không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Ngày xưa, tiên tri Isaia đã nhìn thấy trước cảnh huy hoàng của vinh quang Thiên Chúa tràn ngập khắp địa cầu. Giêrusalem là nhà của Thiên Chúa ở giữa loài người trở thành nơi các dân tộc, các quốc gia quy tụ về. Thiên Chúa làm cho Giêrusalem vươn vai đứng dậy đón nhận vinh quang của Thiên Chúa và cũng là nơi chiếu toả vinh quang Thiên Chúa. Các dân tộc sẽ từ muôn phương đổ về Giêrusalem để tôn thờ, quy phục Thiên Chúa Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi, các chư dân sẽ tiến về phía ngươi, các vua chúa sẽ hướng về ánh bình minh của ngươi. Thiên Chúa sẽ làm cho Giêrusalem trở nên phú túc phì nhiêu Các lạc đà từng đàn che rợp đất, các dân tộc từ Sơva kéo đến, mang theo vàng bạc và trầm hương. Cái nhìn của Isaia cho thấy Giêrusalem không còn là của riêng Israel, Thiên Chúa không còn bị giới hạn trong dân Do Thái nữa mà Thiên Chúa là Thiên Chúa của mọi dân tộc. Thánh Matthew đã thấy tình thương cứu độ của Thiên Chúa được trao ban cho dân ngoại qua đại diện là các đạo sĩ từ phương Đông tìm đến với Hài Nhi Giêsu. Nếu như với dân Do Thái, Thiên Chúa đã dùng các tổ phụ và các tiên tri để chuẩn bị cho dân đón nhận Đấng Cứu Thế, thì đối với dân ngoại, Thiên Chúa lại dùng những dấu chỉ và sự kỳ diệu của thiên nhiên để đưa họ đến với Ngài. Các đạo sĩ là các nhà chiêm tinh của Phương Đông, vùng đất có nhiều truyền thống tôn giáo. Các vị này đã nhận ra sự khác thường trong vũ trụ, đó là sự xuất hiện của một ngôi sao lạ. Theo truyền thống của Phương Đông, mỗi con người sinh ra đều gắn liền vận mệnh của mình với một vì sao. Khi thấy xuất hiện trên bầu trời một ngôi sao toả sáng khác thường, các đạo sĩ nghĩ đến vận mệnh của một vị quân vương vừa mới xuất hiện. Với lòng tin đơn sơ như thế, họ đã rủ nhau lên đường để tìm kiếm vị vua của người Do Thái mới sinh. Sự kiện này cho thấ, tình yêu và lòng quảng đại của Thiên Chúa dành cho dân ngoại, Ngài không giới hạn lòng thương xót vào một số người, nhưng Ngài để cho lòng thương xót ấy tuôn tràn trên toàn thể nhân loại. Bằng nhiều cách, Thiên Chúa đã tạo cơ hội cho dân ngoại cũng được hưởng tình thương của Chúa. Tuy nhiên, hành trình tìm đến với Đấng giàu lòng thương xót là một hành trình nhiều gian nan, thử thách và chỉ những ai kiên trì mới có thể gặp được Thiên Chúa. Hành trình của các đạo sĩ là một hành trình đi tìm ánh sáng đức tin. Để có thể gặp được Thiên Chúa, họ phải chấp nhận ra khỏi sự êm ấm của bản thân, từ bỏ những ràng buộc của công việc, gia đình để lên đường. Các ông đã phải trải qua hành trình rất xa và gian nan, có những lúc ánh sao như vụt tắt, nhưng các vị không chán nản thất vọng, trái lại, các ông đã tìm đến cung điện của Hêrôđê để hỏi về vị vua mới sinh hiện ở đâu. Khi được chỉ cho biết tại Belem, đất Giuđa, các đạo sĩ lại tiếp tục lên đường, ngôi sao lại xuất hiện như để khuyến khích các ông. Các ông đã tìm đến nơi. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, họ liền sấp mình thờ lậy người. Các đạo sĩ bước vào nhà, là ngôi nhà nơi Thánh Gia đang sống, nhưng ngôi nhà ấy còn là hình ảnh ngôi nhà Giáo hội, là nơi Thiên Chúa đang hiện diện. Các đạo sĩ là những người dân ngoại đã tìm được Chúa Giêsu, họ được mời gọi bước vào nhà của Chúa để ở nơi đây, họ cùng với mọi người tôn thờ Thiên Chúa, được chung hưởng tình yêu và hạnh phúc với Thiên Chúa. Các đạo sĩ đã mở kho báu để dâng cho Thiên Chúa vàng, nhũ hương và mộc dược. Với những lễ vật này, họ đã thể hiện lòng tin và sự tôn thờ của mình dành cho Thiên Chúa tối cao. Gặp gỡ Đấng là Tình yêu, đón nhận được lòng thương xót từ nơi Thiên Chúa, các đạo sĩ đã không giữ lại riêng cho mình, các ông được thúc đẩy để sống một lối sống khác, bước đi trên con đường khác để đem lòng thương xót Chúa về cho quê hương xứ sở mình. Khác với các đạo sĩ là nhưng người lên đường tìm kiếm, Hêrôđê và các thượng tế, đại diện giới lãnh đạo và cả dân chúng đã tỏ ra vô cảm trước tin vui Thiên Chúa Giáng sinh. Mặc dù khi nghe tin Vua dân Do Thái mới sinh, họ có một chút phản ứng, nhưng lại là phản ứng tiêu cực. Phản ứng này xuất phát từ những tâm hồn thiếu vắng tình yêu, nhưng đầy tràn ghen tị, kiêu căng và hận thù. Họ sợ rằng, vị Vua mới sinh sẽ tranh giành quyền lực của họ, sẽ gây ảnh hưởng hơn họ, vì thế, họ tìm cách để triệt hạ Ngài bằng tất cả các thủ đoạn độc ác, được mặc dưới cái vỏ tốt lành. Họ bí mật lên kế hoạch thà giết lầm hơn bỏ sót, nhưng bên ngoài, họ vẫn nói với các đạo sĩ Các ngài hãy đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, khi đã tìm thấy, xin báo lại cho chúng tôi, để chúng tôi cũng đến bái lậy Người. Một khi con người không có tình yêu thương, thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn, thì họ sẽ hành xử gian dối, độc ác như thế. Thiên Chúa yêu thương, Ngài muốn cho mọi dân tộc trên thế giới tin và đón nhận tình yêu của Ngài. Ngài dùng nhiều cách thế để đưa họ đến với Ngài và đưa tình yêu của Ngài đến với họ. Tuy nhiên, Ngài vẫn muốn dùng mỗi chúng ta là những người được hưởng tình yêu thương của Chúa, phải tiếp tục đem tình yêu ấy đến cho những anh em khác chưa nhận biết Chúa. Theo Đức Thánh Cha Fancis, việc đem Chúa cho anh em không phải là một chương trình quảng cáo hay tuyên truyền, cũng không phải là một cuộc rao bán như bày hàng trong siêu thị, mà phải là cảm nghiệm từ trong tâm hồn về tình thương của Chúa để sống và thể hiện tình thương ấy trên gương mặt, trên hành động và cả cuộc đời của mình. Khi mỗi người Kitô hữu sống trong hạnh phúc vì được Chúa yêu như thế, mọi người sẽ bị thu hút bởi cách sống vui và sống hạnh phúc của chúng ta, họ sẽ tìm đến với Chúa. Điều Chúa mong đợi chúng ta khi đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa là nói về việc Chúa đã yêu và đã làm cho mình. Nói cho họ về một Thiên Chúa giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa chạnh thương và Ngài cũng là Cha của mỗi chúng ta, Ngài muốn mỗi người quay về sống trong tình yêu thương chăm sóc của Ngài. Giống như các đạo sĩ trở về quê với một con người đã được biến đổi, vì được gặp gỡ, đụng chạm đến lòng thương xót của Chúa, mỗi chúng ta cũng sẽ phải sống một nếp sống khác. Chúng ta sẽ không thể nói về Chúa nếu chúng ta không chịu thay đổi để nên giống Chúa, cũng như không thể nói về Chúa khi chúng ta vẫn sống theo con người cũ, thói quen cũ. Lời nói và cuộc sống của chúng ta chỉ có thể trở nên đáng tin khi chúng ta để cho Chúa biến đổi chúng ta mỗi ngày. Qua việc tham dự Thánh lễ và các Bí tích, Thiên Chúa thêm sức mạnh cho chúng ta, giúp ta trở nên ngoan ngoãn để cho Lời Chúa uốn nắn và biến đổi nên con người mới, trở nên chứng nhân của lòng Chúa xót thương. Amen. Về mục lục . NGÔI SAO MAI Lm. Giuse Nguyễn Hữu An Trên YouTube, có hơn 2 tỉ lượt vào xem ca khúc “Gangnam Style” của ca sỹ Psy, người Hàn điệu nhảy phi ngựa và giai điệu vui nhộn, Psy trở nên nổi tiếng khắp nơi trên thế thật của anh ta là Park Jae-Sang Psy, anh được yêu mến với tư cách là rapper đa tính cách với nhiều video và lối diễn độc đáo. Nhờ ca khúc “Gangnam Style” mà Psy được bộ văn hóa Hàn Quốc trao tặng huân chương Okgwan vì anh đã đưa văn hóa Hàn giới thiệu đến với bạn bè quốc tế. Psy trở thành ngôi sao âm nhạc thế giới và là thần tượng của giới trẻ. Trong đời sống xã hội hôm nay, có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực. Ngôi sao nhạc rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá…đủ các loại sao ! Cách đây hơn hai ngàn năm, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” Mt 2,1-2. Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” Mk 5,1. Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người. Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” Ds 24,17. Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia. Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. ó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước. Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Vua phái các vị ấy đi và dặn “xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi để tôi cùng đến bái lạy Người”. Họ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược. Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh. Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy. Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành. Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định “từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời” Mt 8,11. Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ. Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo Hội, qua các Bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến. Hôm nay, không có ngôi sao Đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” . Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”Pl 2,15.Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao ? Thánh Gioan giải thích “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”1Ga 4,12. Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”1Ga 4,18. Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy. “Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi sao của Chúa thể không ngôi sao nào trên trời dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhưng nếu chúng ta đã đến được với Chúa Giêsu thì cũng nhờ một hay nhiều ngôi sao nào đó dẫn đường. Có thể là cha mẹ, một người bạn, một quyển sách, một biến cố… Điều quan trọng là chúng ta biết đọc những tín hiệu. Giữa trăm ngàn đĩa phim, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể xem được và phân biệt được phim về Chúa Giêsu với các phim khác. Giữa trăm ngàn đĩa ca nhạc, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể nghe được và phân biệt được đĩa thánh ca với các đĩa khác. Đầu đĩa ấy có thể là vũ trụ, có thể là Hội Thánh. Đặc biệt là Thánh Kinh. Nhưng điều cốt yếu vẫn là tôi phải xem, phải nghe. Thiên nhiên và lịch sử không bao giờ thiếu những ngôi sao tín hiệu để con người đến được với ánh sáng.” ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt. Thời nay, Mẹ Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao lao là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời. Chúa muốn chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh “Các con là ánh sáng cho trần gian” Mt 5,14. Kitô hữu trở nên ánh sao tình yêu, ánh sao tha thứ, ánh sao hy vọng, ánh sao công bình, ánh sao bác ái, ánh sao đạo đức, góp phần dẫn đường cho người khác đến với Chúa. Ngôi sao Đông phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi rồi tiến dâng lễ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng ta sáng lên niềm tin. “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” Lc,11,28, Chúa Giêsu chỉ cho thấy sự cao cả đích thực của Đức Maria, như thế mở ra cho mỗi người chúng ta khả năng sống mối phúc phát sinh từ Lời được lắng nghe và đem ra thực hành. Domini, số 124. Chính Chúa Giêsu là Ngôi Sao Mai dẫn chúng ta đi vào con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Năm 2016 là năm tân Phúc-Âm-hóa đời sống xã hội. Bước theo ánh sáng Ngôi Sao Mai, người Kitô hữu chiếu tỏa các giá trị Phúc Âm giữa lòng trần thế. Loan báo Phúc Âm là loan báo tình yêu thương, là xây dựng “nền văn minh tình thương”. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo trong thời đại hôm nay. Về mục lục . ÁNH SÁNG CHỈ LÒNG THƯƠNG XÓT Lm. Giuse Trực Bài hát “Ngày ánh sáng” của nhạc sĩ Nguyên Kha gợi cho chúng ta về hình ảnh của ngày lễ hôm nay “Hôm nay muôn dân đã được thấy ánh sáng. Hôm nay Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. Người là Vua uy quyền, là Vua vinh quang, Vua Thái Bình, Vua muôn đời”. Rõ ràng “ánh sáng đã đến thế gian để chiếu soi mọi người”. Ánh sáng này không chỉ chiếu soi cho dân tộc Do Thái, mà còn cho muôn dân, để “những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”. Ánh sáng đó chính là Lòng Thương Xót của Chúa Cha. I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA Bài Đọc I Is 60, 1-6 Cách Chúa Giêsu 765 năm, Isaia đã loan báo cho Israel về “vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi”. Nhờ vinh quang này mà “Mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng dạ ngươi hớn hở tưng bừng”. Tin Mừng Mt 2, 1-12 Vinh quang đó được thiên thần loan báo cho các mục đồng, để rồi họ lên đường tìm kiếm và gặp được ánh sáng nơi hang đá Belem. Vinh quang đó hôm nay các nhà chiêm tinh ở tận phương Đông đã nhận ra và đã lên đường tìm kiếm “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Tuy nhiên cũng có những người biết rõ vinh quang đó nhưng họ không đón nhận mà còn tìm cách để tiêu diệt, cụ thể là vua Hêrôđê. Qua phụng vụ Lời Chúa hôm cho chúng ta thấy rõ điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói đến nhiều lần trong Năm Thánh này, đó là “dung mạo Lòng Thương Xót”, được thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô qua hình ảnh Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Dung mạo đó hết sức đơn sơ, gần gũi. Tuy nhiên dung mạo đó lại được ánh sáng của Chúa soi dẫn cho “mọi nước, mọi dân được nhìn thấy”. Vì vậy, ánh sáng này cũng chính Lòng Thương Xót của Chúa, giúp chúng ta nhận ơn cứu độ cho cuộc đời mình. II. THÁI ĐỘ TRƯỚC ÁNH SÁNG CỦA CHÚA Đứng trước ánh sáng chỉ đường của Chúa, con người sẽ có hai thái độ. Đón nhận Thái độ của các nhà chiêm tinh ở tận phương Đông đã nhận ra vì sao lạ chính là vị cứu tinh nhân loại, nên mặc dù họ là những người ngoại giáo, họ đã không quãng ngại từ bỏ tất cả để đi tìm. Từ đây, ánh sáng này mới là ánh sáng thật, ngôi sao này mới là ngôi sao chân lý… Họ sẵn sàng từ bỏ cuộc sống đang vốn bình yên của mình để đến bái thờ một Hài Nhi do ánh sao lạ chỉ đường. Chắc chắn khi trở về quê nhà, đối tượng niềm tin của họ sẽ thay đổi, từ trước đến giờ có thể họ thờ những vị thần huyền bí của họ, nhưng hôm nay họ đã suy phục Hài Nhi Giêsu; cuộc sống của họ cũng sẽ không còn như xưa, niềm vui, tình liên đới đã tác động đến họ. Không đón nhận Đối nghịch với các nhà chiêm tinh, các thượng tế, các kinh sư của người Do Thái thuộc lòng câu kinh thánh “Phần người, hỡi Bê lem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành phố nhỏ nhất của Giuđa, vì người là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời”, nhưng họ không nhận ra Vị Cứu Tinh nhân loại đã sinh ra tại đó. Hêrôđê sau khi biết rõ một Hài Nhi đã giáng sinh tại Bêlem, thay vì đến tôn thờ, ông đã bày mưu để tiêu diệt vị cứu tinh, dẫn đến một thảm hỏa là cuộc thảm sát các trẻ sơ sinh dưới 2 tuổi. Như vậy, đứng trước ngôi sao lạ chính là ánh sáng của Chúa, sẽ có những người đón nhận và được thay đổi, nhưng cũng có những người không đón nhận nên họ cứ cố chấp và ở lì trong tình trạng cũ của mình. III. THÁI ĐỘ TRƯỚC LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA Lòng Thương Xót Chúa tồn tại từ đời nọ trãi qua đời kia, đặc biệt Lòng Thương Xót đó rộng mở trong Năm Thánh này. Thế nhưng con người chúng ta đã có thái độ nào trước Lòng Thương Xót của Chúa? Đón nhận Rất nhiều người đã nhận ra Đức Giêsu Kitô là quà tặng Lòng Thương Xót của Chúa Cha, nên họ đã “Tín thác vào Ngài” một cách tuyệt đối. Dĩ nhiên họ đón nhận Lòng Thương Xót này với một tâm hồn thánh thiện, đơn sơ, trong sáng giống như các đạo sĩ phương Đông, chứ không phải với những lệch lạc để tìm kiếm dấu lạ hoặc thỏa óc hiếu kỳ. Họ đến với Lòng Thương Xót để được tha thứ các tội lỗi với lòng thống hối ăn năn chân thành qua Bí tích Giải tội. Họ đến với Lòng Thương Xót để được gia tăng sức mạnh qua Bí tích Thánh Thể. Họ đón nhận Lòng Thương Xót để cuộc đời của họ được thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Vì vậy, thể hiện cụ thể của những người đón nhận Lòng Thương Xót là họ biết quý chuộng và tìm kiếm những giá trị linh thánh, biết sợ hãi để tránh xa những điều sai lỗi. Không đón nhận Tuy nhiên cũng còn nhiều người chưa đón nhận Lòng Thương Xót Chúa. Nguyên nhân chính yếu là vì họ còn sống trong lợi lộc của riêng mình. Đó là nguyên nhân vì sao Hêrôđê tìm cách tiêu diệt Hài Nhi Giêsu. Nếu đón nhận Chúa họ sẽ phải mất mát nhiều thứ tiền bạc, chức tước… Nếu sống theo những gì Chúa chỉ dạy đòi hỏi họ phải hy sinh. Ví dụ như không được tìm lợi ích cho mình bằng những phương tiện xấu, không được sống trong đam mê dục vọng, dù đó là thầm kín, không được sống cho riêng mình… Họ chỉ nghĩ đến những cái “mất” mà không nhìn thấy cái “được”. Cái “được” lớn nhất của việc đón nhận Chúa, bước theo Chúa là được Chúa xót thương để sống hạnh phúc với Chúa đời đời. Còn ngược lại, họ tìm để “được” những giá trị trần gian, nhưng rồi họ sẽ mất tất cả. Chúng ta phó thác cho Lòng Thương Xót Chúa tất cả những ai đang mãi mê với những giá trị chóng qua. Chúng ta xin Chúa cho lòng chúng ta đừng vướng bận bởi những giá trị phù vân. “Sự sáng đã bừng lên”. Lòng Thương Xót Chúa đang mở ra. Xin Chúa cho chúng con biết lên đường tìm kiếm để cuộc đời chúng con được biến đổi. Về mục lục . LỄ HIỂN LINH, LỄ CỦA ÁNH SÁNG Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ “Họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người” Mt 2,11 Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa không những chỉ xuống thế làm người trên mặt đất này, mà còn để cho con người nhìn thấy ; Người không chỉ có sinh ra, nhưng còn để con người biết đến và thờ lạy. Đây là sự thật nhãn tiền được biểu lộ trong ngày lễ Hiển Linh, ngày Chúa tỏ mình ra cách rõ nhất mà hôm nay chúng ta mừng kính. Hôm nay, các đạo sĩ từ phương Đông đến tìm, họ tìm ai ? Tìm “sự lóe rạng mặt trời đức nghĩa” Ml 3, 20 như Malaki đã loan báo, tìm Đấng mà chúng ta đọc thấy trong sách Dacaria “Này có một người, hiệu là Chồi lộc’” Dc 6, 12. Ai tìm thì sẽ thấy. Họ mỏi công đi tìm theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ và họ đã thấy, họ đến thờ lạy Hài Nhi mới sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria. Do lòng nhân hậu, Chúa tự tỏ mình ra cho người ta thấy như thánh Phaolô viết “ấng cứu thoát ta đã hiển linh… không phải do tự các việc ta làm trong đàng công chính, nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người” Tt 3,4-5. Xin hỏi các đạo sĩ Các ngài đang làm gì, hỡi các đạo sĩ, các ngài làm chi vậy? Các ngài thờ lạy một Trẻ Thơ măng sữa, mới sinh nơi xóm nhỏ đơn nghèo ư? Các ngài tin rằng, Trẻ Thơ ấy là Thiên Chúa sao ? Nhưng “Thiên Chúa ở trong thánh điện của Người, ngai của Người đặt ở trên cao” Tv 10,4. Còn các ngài, các ngài tìm Chúa nơi hang bò lừa đang nằm trong vòng tay mẹ ẵm sao ? Các ngài làm chi vậy? Tại sao các ngài lại dâng vàng ? Trẻ Thơ này là vua ư ? Nhưng đâu là cung điện cũng như ngai vàng của nhà vua, và đâu là quần thần của nhà vua ? Chuồng bò là cung điện, máng cỏ là ngai vàng, Đức Maria và thánh Giuse là quần thần của vua sao ? Làm sao những người thông thái không thờ lạy Hài Nhi, họ đã bị điên dồ hết rồi sao, phải chăng họ coi thường sự non nớt và cái nghèo của Trẻ Thơ ? Để nên người thông thái, các đạo sĩ đã trở nên điên dồ; Thánh Thần đã dạy bảo họ trước “Vì chưng một khi thế gian, đứng trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa, đã không lợi dụng khoa khôn ngoan mà nhìn biết Thiên Chúa, thì Thiên Chúa đã quyết ý dùng sự điên rồ của lời rao giảng để cứu những kẻ tin” 1Cr 1, 21. Vì vậy, họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Hài Nhi nghèo này, thờ kính như một vị vua, vị thần. Một ngôi sao hướng dẫn họ bên ngoài đã chiếu tỏa nơi họ ánh sáng huyền nhiệm của chính vì sao. Chúa là Ánh Sáng Lễ Hiển Linh là mầu nhiệm ánh sáng, ánh sáng được diễn tả qua biểu tượng ngôi sao hướng dẫn cuộc hành trình của các nhà đạo sĩ. Chúa Kitô chính là Nguồn Sáng thật, là “Mặt Trời mọc lên từ trên cao” x. Lc 1,78 chiếu tỏa trần gian và lan ra theo những vòng tròn đồng tâm. Trước hết trên ức Maria và Thánh Giuse được chiếu sáng bởi sự hiện diện thần linh của Hài Nhi Giêsu, kế đến là các mục đồng tại Bêlem; khi được thiên sứ báo tin, các ngài mau mắn chạy đến hang đá và gặp thấy nơi đó “dấu chỉ” đã được báo trước cho họ một con trẻ được bọc trong khăn và đặt nằm trong máng cỏ x. Lc 2,12. Các mục đồng, cùng với Đức Maria và Thánh Giuse, đại diện cho “nhóm nhỏ còn lại của Dân Israel”, những người nghèo, những kẻ đã được loan báo Tin Mừng. Ánh sáng của Chúa Kitô cuối cùng chiếu toả đến các vị đạo sĩ, quả đầu mùa từ các dân ngoại “Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng… và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người” Mt 2,11. Trong khí đó, “cả nhà vua cùng các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân” Mt 2,3 còn nằm trong bóng đêm, nơi mà tin tức về ấng Thiên Sai sinh ra, được thông báo một cách nghịch lý cho họ biết qua các vị đạo sĩ, và khơi dậy không phải niềm vui mừng, nhưng sự lo sợ và những phản ứng thù nghịch x. Mt 2,3. Ý định của Thiên Chúa quả thật là nhiệm mầu “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc họ làm là điều xấu” Ga 3,19. Nhưng thử hỏi ánh sáng đó là gì đây? Nó chỉ là một biểu tượng gợi ý, hay có một thực tại thật được nói lên qua hình ảnh này? Thánh Gioan viết “Thiên Chúa là sự sáng, tối tăm không hề có nơi Người” 1Ga 1,5. Và thêm “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Hai lời quả quyết trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn rằng Ánh sáng bừng lên trong đêm Giáng Sinh là Tình Yêu Thiên Chúa, được mạc khải nơi chính Lòng Thương Xót Nhập Thể. Chúa Giêsu “là Ánh sáng đã chiếu soi lương dân và Vinh quang của Israel dân Chúa” Lc 2,32; ược Thiên Chúa linh ứng, cụ Simêon đã thốt lên như thế. Ánh sáng chiếu soi mọi dân tộc, ánh sáng của lễ Hiển Linh phát xuất từ vinh quang của Israel dân Chúa, vinh quang của ấng Thiên Sai, mà theo Kinh Thánh, đã giáng sinh tại Bêlem, “thành của Vua avít” x. Lc 2, 10-11. Các đạo sĩ thờ lạy một Hài Nhi đơn sơ nằm trong đôi tay Mẹ Maria, bởi vì các ngài nhìn nhận nơi Con Trẻ này nguồn mạch của hai ánh sáng đã hướng dẫn các ngài ánh sáng của ngôi sao và ánh sáng của Kinh Thánh. Các ngài nhìn nhận nơi Con Trẻ vị Vua của người Giuđêa, vinh quang của dân Israel, và cũng là Vua của tất cả mọi dân nước. Giáo hội là ánh sáng Trong khung cảnh phụng vụ của lễ Hiển Linh cũng được biểu lộ mầu nhiệm Giáo Hội và chiều kích truyền giáo của Giáo Hội. Giáo Hội được mời gọi chiếu sáng trong thế giới ánh sáng của Chúa Kitô, vừa phản chiếu ánh sáng đó nơi chính mình, như mặt trăng phản chiếu ánh sáng của mặt trời. Trong giáo hội đã được hoàn tất những lời tiên tri xưa nói cho thành thánh Giêrusalem “Hãy chỗi dậy, hãy mặc lấy ánh sáng, bởi vì ánh sáng của ngươi ngự đến… Các dân tộc sẽ bước theo ánh sáng của ngươi, các Vua Chúa sẽ đi theo vinh quang của Nguồn Sáng ngươi” Is 60, 1-3. Người kitô hữu sẽ phải thực hiện điều này sau khi đã được Chúa huấn luyện sống theo các Mối Phúc, nhờ qua chứng tá của tình thương, phải lôi cuốn mọi nguời đến cùng Thiên Chúa. “Như thế phải chiếu toả ánh sáng của chúng con trước mọi người, ngõ hầu nhờ thấy những việc tốt chúng con làm mà họ tôn vinh Cha chúng con trên trời” Mt 5,16. Về mục lục . TÌM VÀ GẶP Trầm Thiên Thu Các nhà chiêm tinh mau mắn và không ngại gian khó trên hành trình tìm kiếm Thiên Chúa, và họ đã gặp được Ngài. Họ đã dâng tiến Chúa những gì quý giá nhất. Đó là một Hành Trình Đức Tin. Hêrôđê không gặp được Chúa vì độc ác, nham hiểm, ích kỷ, tham quyền cố vị, ưa hình thức, trọng địa vị, khoái chức tước, thích quyền lực để hành hạ người khác. Lễ Hiển Linh trước đây được gọi là lễ Ba Vua. Thực ra không chỉ có ba người mà nhiều người, họ cũng không phải là các Quốc vương mà là các đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia. Họ từ Đông phương xa lắc xa lơ, và với con mắt “nhà nghề”, họ đã nhận biết có Ánh Sao Lạ xuất hiện, chắc chắn có sự kiện rất lạ. Ngôi sao này kỳ lạ đến nỗi họ đã phải tức tốc lên đường tìm hiểu cho rõ ngọn nguồn, nghĩa là họ đã được Ơn Chúa tác động, nhưng điều quan trọng là họ mau mắn làm theo linh hứng của Chúa Thánh Thần. Họ cứ đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn đường họ đến Belem, họ được diện kiến chính Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài ngay tại nơi hang đá xa xôi, hẻo lánh, lại còn hôi tanh nữa. Hiển linh là Thiên Chúa tỏ cho nhân loại biết Hài Nhi Giêsu là Thiên Tử, là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Các đạo sĩ đại diện nhân loại nhận biết và thờ lạy Con Thiên Chúa. Lời cầu nguyện “xin cho Danh Cha cả sáng” đã và đang trở nên hiện thực. Từ hàng ngàn năm trước, Thiên Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con, và nay đã ứng nghiệm đúng như lời hứa đó Ngôi Hai mặc xác phàm làm người và ở giữa nhân loại. Ngài làm người để chia ngọt sẻ bùi với thân phận con người của chúng ta. Quả thật, đó là “độc chiêu” mà Thiên Chúa dùng để tỏ mình ra cho muôn dân. Chúng ta chỉ là những kẻ nô lệ tội lỗi, nhưng “nô tì kiếp” của chúng ta được chính Đức Giêsu đến tháo gỡ mọi gông cùm của tội lỗi, và còn được thừa nhận là con cái của Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia kêu gọi “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” Is 601-2. Ánh Sáng đó là vinh quang Thiên Chúa, Ánh Sáng đó là Đức Kitô giáng sinh tại Belem, và từ nay, Ánh Sáng đó luôn chiếu tỏa khắp nơi, bóng tối phải lùi bước ở bất cứ nơi nào có Ánh Sáng. Thật hạnh phúc biết bao! Chúng ta không chỉ được giải thoát và trở nên con cái Thiên Chúa, mà chúng ta còn được Ngài quan tâm, chăm sóc, nâng niu, chiều chuộng. Quả thật, chúng ta không thể không vui mừng hớn hở, mặt mày rạng rỡ, cõi lòng rạo rực, vui còn hơn ngày hội hoặc lễ, tết. Và vì vậy, “chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông” Is 603-4. Trong số chư dân đó có chúng ta, những con dân nước Việt bé nhỏ, và trong số những người Việt, chúng ta lại được diễm phúc làm con cái của Thiên Chúa. Vâng, Ánh Sáng Đức Kitô đã và đang chiếu sáng dọc suốt đất nước hình chữ S thân yêu của dân Việt chúng ta. Thật kỳ diệu biết bao! Đúng như ngôn sứ Isaia đã tiên báo “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” Is 605-6. Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Belem kia lại chính là Tân Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng. Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” Tv 726. Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, nhưng Ông Vua Nghèo Giêsu lại đến để phục vụ chứ không được ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” Lc 532, Ngài “đến để tìm và cứu những gì đã mất” Lc 199, và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào” Ga 1010. Cách làm của Vua Nghèo quá “khác người”, nhân loại không thể hiểu hết, thậm chí là không muốn hiểu! Tại sao? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta thế nào, như Ngài đã nói “toạc móng heo” “Tư tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là đường lối của Tôi” Is 558. Thế nhưng triều đại của Vua Nghèo lại “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” Tv 727, để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” Tv 7211. Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, Ngài luôn theo sát đồng bào, Ngài luôn tận tụy với đám dân nghèo, Ngài cương quyết bảo vệ công lý, bảo vệ sự thật. Ngài không chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ” Tv 7212-13. Vương Quốc của Thiên Chúa là vương quốc hòa bình, mọi công dân đều sống trong cảnh thanh thản, vô ưu, vô sầu, và luôn tận hưởng niềm hạnh phúc thực sự. Từ khắp nơi, không trừ nơi nào, ngay cả những vùng sâu vùng xa nhất, từ “các hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống Ngài, những vua chúa cũng đều tới tiến dâng lễ vật, mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” Tv 7210-11. Đức Kitô là Vua Công Lý, “Ngài giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ” Tv 7212-13. Đó là điều mà Giáo hội đang rất quan tâm, được trình bày qua Giáo huấn Xã hội Công giáo, nhất là từ Công đồng Vatican II. Thánh Phaolô nói “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Ngài đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây” Ep 32-3. Tông truyền là một trong bốn đặc tính của Giáo hội Công giáo, và đó cũng là mối dây liên kết các chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô, đồng thời cũng là tình liên đới với nhau – kể cả với người không cùng tôn giáo. Thánh Phaolô giải thích rõ ràng “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Ngài đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Ngài. Mầu nhiệm đó là trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” Ep 35-6. Vì thế, chúng ta không có lý do gì để “chảnh” hoặc kỳ thị người khác, dù người đó là ai. Thánh sử Mátthêu kể Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” Mt 22. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê mới tá hỏa tam tinh, như bị sét đánh ngang tai, vì tâm bất chính nên ông bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ đều trả lời “Tại Bêlem, miền Giuđê”. Đúng như trong sách ngôn sứ có chép rõ ràng “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời” Mt 26. Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Ngài” Mt 27. Nghe chừng tử tế quá! Miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm. Đây là loại “đểu thật” chứ không “đểu giả”, lọc lừa và mánh khóe một cách tinh vi, người khác khó có thể nhận ra, khi biết bị lừa thì “chuyện đã rồi”. Động thái của vua Hêrôđê cũng nhắc chúng ta xem lại lời ăn tiếng nói và hành động của mình có “lệch pha” hay không, vì ai cũng có thể nói hay về mình, muốn chứng tỏ mình “tốt lành” nhưng thực ra lại đang mưu mô thâm hiểm. Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi, vì họ ngay lành nên cứ tưởng ông vua này cũng tốt lành. không hề biết vua Hêrôđê “khẩu Phật, tâm xà”, mưu mô và thâm độc, chỉ muốn bảo vệ “cái ghế toàn năng” của mình thôi! Họ đâu ngờ rằng hôn quân Hêrôđê chẳng dễ dãi cho họ đi như vậy đâu, ông ta tính “đường dài” hơn, chơi “nước cờ” cao hơn. Chứ nếu ông ta không tính xa thì hẳn ông ta đã bỏ tù họ hoặc lệnh cho họ bị “cẩu đầu trảm” rồi. Ra khỏi hoàng cung, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, rồi mới dừng lại. Lạ thật! Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Vào trong hang đá, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Cô Maria, họ liền sấp mình thờ lạy Hài Nhi. Sau đó, họ “nựng” Bé Giêsu và trò chuyện rôm rả với Song Thân của Bé. Có lẽ lúc này lũ mục đồng vẫn tíu tít bên Bé Yêu Giêsu, không muốn rời xa… Giả sử nếu là chúng ta là các đạo sĩ, chưa chắc chúng ta muốn bước vào, thậm chí có thể kéo nhau quay về cho nhanh, và có thể “chạy mất dép” chứ chẳng chơi đâu! Nhưng thật lạ, các đạo sĩ là những người không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu có nữa. Họ thấy Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai Cô Chú “nhìn thấy thương”, nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa “ngu ngơ” chẳng biết ất giáp gì, có lẽ mới đầu họ cũng “xì xầm” bàn tán với “mắt chữ O, miệng chữ A”, nhưng họ vẫn không hề thất vọng và tin thật rằng Trẻ Sơ Sinh kia là “dị nhân” mà họ muốn tìm gặp, rồi họ can đảm bước vào triều yết Hàn Vương và kính chào Hàn Phu Thê. Thật khó tin, y như cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó lại là chuyện hoàn toàn có thật, không phải hư cấu do óc tưởng tượng của con người. Và rồi không chỉ vậy, các đạo sĩ còn dâng những lễ vật cao quý nhất mà họ đã chuẩn bị và đem theo. Quá đỗi diệu kỳ! Ngày nay, chúng ta được dạy cho biết đó là mầu nhiệm, không thấy cảnh Hàn Gia lúc đó nên chúng ta đã tin. Chứ nếu tận mắt chứng kiến thì chắc chúng ta không thể và không dám tin Em Bé có tên là Giêsu kia lại chính là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm người. Vậy là chúng ta may mắn. Thánh Phaolô viết “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô” Ep 32-3. Thật đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ của Người” Ep 35. Thánh Phaolô giải thích “Mầu nhiệm đó là trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” Ep 35-6. Một lần nữa, chúng ta lại thật may mắn và hạnh phúc vì được “thừa kế gia nghiệp” của Thiên Chúa, nên “một thân thể” và “cùng chia sẻ” với Thiên Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đều phải “xắn tay áo lên và hành động”. Đó là sống Đức Tin cụ thể, tức là thực hành lòng thương xót và thể hiện lòng nhân từ như Thiên Chúa Cha. Các hiền sĩ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, thế nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Họ lại tiếp tục nhận được ơn Chúa. Chắc lúc này họ mới nhận thấy mình thực sự may mắn vì thoát khỏi “nanh vuốt” của ông vua dã tâm Hêrôđê. Việc Chúa làm thật là kỳ diệu! Các đạo sĩ đã nỗ lực tìm gặp “dị nhân” Giêsu cho bằng được, gặp rồi thì họ tin, can đảm bước vào đời, họ tránh “ác nhân” Hêrôđê là cách hành động tích cực và sống tốt. Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh dữ” mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha nhân. Các đạo sĩ là bài học cảnh giác cho chúng ta đề phòng ngày nay, khi mà sự ác đang hoành hành khắp nơi. Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin giúp chúng con biết noi gương các đạo sĩ, luôn miệt mài tìm kiếm Chúa và can đảm hành động đúng đắn. Xin “ánh sao” Ý Chúa luôn soi đường dẫn lối chúng con suốt hành trình trần thế, để chúng con thực hiện mọi sự theo đúng Tôn Ý Ngài trong từng nhịp thở. Xin cho chúng con trở thành những ánh sao sáng để người khác có thể nhận biết Chúa, xin giúp chúng con biết mau mắn và kiên trì tìm kiếm Chúa, và gặp được Chúa ngay trên cuộc lữ hành trần gian này, nhất là được gặp Chúa trên Nước Trời mai sau. Lạy Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, xin thương nguyện giúp cầu thay. Xin giúp chúng con sống ngay thẳng, tâm địa tốt lành, không nhìn người khác bằng nhãn quan suy đoán theo thiên kiến. Tất cả vì sáng danh Chúa chứ không vì vinh danh chúng con hoặc tư lợi. Chúng con cầu xin nhân Danh Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa của chúng con. Amen. Về mục lục . ƠN CỨU ĐỘ CHO MUÔN DÂN Jos. Vinc. Ngọc Biển Trong Tin Mừng, chúng ta thấy có nhiều lần Đức Giêsu nói về mạc khải. Tức là Thiên Chúa dùng nhiều thể nhiều cách để tỏ lộ cho con người biết về chính Ngài. Nói cách khác, Thiên Chúa không tự mạc khải mình ra cho nhân loại, thì con người có cố gắng thế nào cũng không thể biết gì về Ngài được! Hôm nay, Giáo Hội long trọng mừng lễ Hiển Linh, lễ này, trước kia gọi là lễ Ba Vua. Lễ Hiển Linh mang một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người, và tỏ mình ra cho nhân loại qua ba nhà Đạo Sĩ dưới một “ngôi sao lạ”. Ý nghĩa “ngôi sao lạ” Với người Á Đông, theo quan niệm từ ngàn xưa, mỗi khi xuất hiện một ngôi sao lạ trên bầu trời, thì dưới trần, một nhân vật sẽ được chiếu mạng. Đây cũng là lý do khởi điểm của môn chiêm tinh học thời bấy giờ. Ba nhà thông thái mà Tin Mừng hôm nay nhắc tới, các ngài là những nhà chiêm tinh và thiên văn học, vì thế, công việc chính yếu của các ngài là nghiên cứu về những dấu lạ trên bầu trời bằng kiến thức khoa học và kinh nghiệm. Khi thấy điềm lạ xuất hiện trên không trung qua vì sao lạ, với khả năng chuyên môn và ơn trên soi sáng, các Đạo Sĩ biết rõ ngôi sao lạ ấy là dấu hiệu loan báo về Đấng Cứu Thế đã giáng trần, vì thế, Đấng mà muôn dân mong đợi cũng là Đấng mà các Đạo Sĩ đang khao khát đợi trông, nên các ngài đã lên đường để đi tìm. Khi đến Belem, các ngài đã tiến vào triều đình nơi vua Hêrôđê trị vì và mang hai câu hỏi để đệ trình lên vị vua sở tại “Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở ông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người” Mt 2,2. Khi hỏi vua Hêrôđê như vậy, các ngài đã chứng minh sự mạc khải của Thiên Chúa cho mình và thể hiện niềm xác tín mạnh mẽ vào Đấng Cứu Thế, nay đã đến và ở giữa nhân loại, quả đúng với lời tiên báo “Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” Ds 24,17. Chính sự mong mỏi, khao khát và niềm tin của các Đạo Sĩ đặt nơi Đức Giêsu là nguồn ơn cứu độ, thế nên, dù đường xa dặm thẳm, dù mệt nhọc khó khăn, phải băng rừng vượt biển, trèo đèo lội suối, dãi nắng dầm mưa, lặn lội đêm ngày, nhưng các ngài đã không quản ngại để cùng nhau đi tìm cho thấy “Đấng Mêsia xuất thân từ dòng dõi vua Đavít” để phủ phục tôn thờ và dâng tặng những kỷ vật quý giá gồm vàng, nhũ hương và mộc dược. Qua việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho các Đạo Sĩ hôm nay, chúng ta nhận thấy lễ Hiển Linh mở ra cho dân ngoại một chân trời mới với biết bao hy vọng! Điều mà dân Dothái từ xưa đến nay luôn nghĩ chỉ có mình mới được cứu độ, thì với sự tỏ mình ra của Đức Giêsu cho các nhà chiêm tinh chứng minh cho nhân loại thấy ơn cứu độ không thể bị đóng khung cho một quốc gia, một dân tộc, hay một nhóm người nào, mà là cho hết mọi người, mọi nơi và mọi thời, để “… tất cả mọi người đều được chia sẻ cùng một quyền thừa kế, họ trở nên một phần của cùng một thân thể”. Sứ điệp Lời Chúa Mừng lễ Hiển Linh hôm nay, sứ điệp Lời Chúa gợi mở cho chúng ta thấy Nếu các đạo sĩ Đông Phương đã nhờ ngôi sao lạ dẫn đường để đến Belem và gặp được Hài Nhi Giêsu, thì mỗi người chúng ta khi đã lãnh nhận ánh sáng đến từ Thiên Chúa, qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng soi đường cho người khác đến với Chúa như lời dạy của Đức Giêsu “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” Mt 5,14; hay như lời nhắc nhở của thánh Phaolô “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” Pl 2,15. Chúa không bao giờ chấp nhận chúng ta ngồi ù lỳ trong bóng tối và nguyền rủa bóng đêm! Không! Bởi vì “Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” Mt 5,1516. Ánh sáng mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta chiếu tỏa chính là đời sống bác ái, yêu thương và liên đới; sống công bình và làm chứng cho sự thật… Ngày hôm nay, trong đời sống đạo, nhiều khi thay vì chiếu sáng, chúng ta lại ưa chuộng bóng đêm khi mang trong mình sự ích kỷ như Hêrôđê! Sợ mất quyền, mất chức, sợ mất miếng cơm manh áo, hay sợ liên lụy, phiền hà cách này, cách khác, mà không dám nhìn nhận sự thật hay làm chứng và sống cho chân lý! Mặt khác, sự kiêu ngạo, hóng hách và tự tôn khi cho rằng mình mới xứng đáng được Chúa thương bởi vì mình xuất thân từ một gia đình đạo hạnh, nề nếp, lễ giáo gia phong… còn những kẻ đã vướng vào vòng lao lý của tội lỗi một thời, hay không cùng niềm tin với mình thì không bao giờ được Thiên Chúa đoái thương và cứu độ! Tuy nhiên, việc Thiên Chúa tỏ mình cho các Đạo Sĩ là những người dân ngoại hôm nay sẽ cật vấn lương tâm của chúng ta nếu đã có lần chúng ta an tâm tự tại để yên bề như những người Pharisêu, Luật Sĩ, Kinh Sư khi có thẻ kinh trên tay, quanh cổ, nơi gấu áo và tự cho mình được quyền đặc tuyển, thì hôm nay cần phải xem lại, bởi vì ơn cứu độ là một ơn nhưng không mà Thiên Chúa ban cho ai là tùy ý của Ngài. Mặt khác, những khái niệm đạo đức do chính mình đặt ra và mặc cho nó một tiêu chuẩn rồi uốn nắn, gán ghép Thiên Chúa phải theo thiển ý của mình… những thứ ấy không đủ để đảm bảo phần rỗi, vì nó không được xây dựng trên tình yêu và lòng mến. Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con được nhạy bén và nhận biết Chúa qua các dấu chỉ, nhất là qua Lời Chúa. Xin ban cho chúng con có được lòng khiêm tốn và yêu mến Chúa như các Đạo Sĩ. Và, xin ban cho chúng con tránh xa thái độ ích kỷ, tàn ác của vua Hêrôđê khi xưa. Amen. Về mục lục . HÃY LÀ SAO LẠ DẪN ĐƯỜNG GIỚI THIỆU CHÚA Huệ Minh Epiphany manifestation or striking appearance có nghĩa là Lễ Hiển Linh. Tiếng Hy-lạp cổ dùng chữ Theophaneia Theophany meaning vision of God’. Lễ này được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng theo truyền thống xa xưa. Vào Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự hiển linh của Con Chúa cho các Dân Ngoại. Từ năm 1970, Giáo Hội Công Giáo Rôma, nghi thức Latinh đã cử hành Lễ Hiển Linh vào ngày 6 tháng 1 và là Lễ buộc. Các quốc gia khác có thể cử hành vào Chúa Nhật, sau ngày 1 tháng 1. Lễ Hiển Linh còn được gọi là Lễ Ba Vua. Trong khi các tín hữu Đông Phương tưởng nhớ việc Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, được xem là sự hiển linh của Con Chúa cho toàn thế giới. Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa. Lời ngôn sứ Isaia đã vang vọng từ 700 năm trước Công Nguyên về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi Is 60, 1. Ánh sáng sẽ bừng lên trong đêm tối và con dân sẽ đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế là ánh sáng đến trong thế gian để xua trừ bóng tối của tội lỗi và gian tà. Mọi dân sẽ hướng về nguồn ánh sáng để dõi tìm ơn cứu độ Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước Is 60, 3. Theo truyền thuyết, những nhà chiêm tinh, nhà khôn ngoan, còn gọi là các đạo sĩ hay ba vua, đã chiêm ngắm bầu trời và nhận ra vì sao lạ. Họ đã dõi theo ánh sáng của vì sao lạ để tìm đến bái thờ Đấng đã được sai đến. Ngôn sứ Isaia đã tiên báo về việc các bậc quân vương tiến về để thờ lạy Chúa Hài Nhi. Các nhà Đạo Sĩ Phương Đông cùng đến dâng Chúa của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Isaia đã có thị kiến về đoàn người từ các phương xa tìm đến bái thờ Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha tất cả những người từ Sơva kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa Is 60, 6. Các nhà Đạo Sĩ đã miệt mài kiếm tìm qua dấu chỉ mà không quản ngại gian khó. Các ngài đã được Thiên Chúa đáp trả như lòng mong ước. Chúa Giêsu đã dạy Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho Mt 7, 8. Hồng ân Chúa bao la tuyệt vời, đoàn người dân ngoại đã được chứng kiến tận mắt ơn Cứu Độ đã tỏa sáng Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến Mt 2, 11. Vàng được mệnh danh là vua của mọi kim loại. Vàng thường được coi là của lễ xứng hợp nhất để dâng tiến vua. Chúa Giêsu sinh ra để làm vua. Vị vua này không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu. Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập tự giá. Sự có mặt của Ngài đã biến đổi thế giới loài người, mang lại hạnh phúc cho nhân loại. Bệnh tật được chữa lành Mt 8, 16-17, tang tóc được hân hoan Lc 7, 11-17, tội lỗi được tha thứ Mt 2,5, ngay cả sự chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an Mc 5, 39. Vì vua này xuất hiện luôn ban cho con người một niềm vui, một niềm hy vọng “Phúc cho anh em, là những người nghèo, vì triều đại Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những người đói khát vì anh em sẽ được no nê. Phúc cho anh em là những người đang khóc vì anh em sẽ được vui cười” Lc 6, 20-21. Nhũ hương dâng cho Hài nhi là thứ hương liệu có mùi thơm dịu mà thầy tư tế thường dùng trong các nghi thức thờ phượng. Thầy tư tế chính là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Vị tư tế cũng chính là người mở đường dẫn lối để con người đến được với Thiên Chúa. Ánh sao soi đường đến nơi thì đã tắt, bởi lẽ Chúa Giêsu chính là ánh sáng thật để soi rọi con người tìm ra chân lý. Chân lý con người tìm kiếm là tình yêu và gia nghiệp của Ngài. Chính chúa Giêsu sẽ dẫn đưa con người về với Chúa gửi Ephêsô, thánh Phaolô đã khẳng định “Trong Đức Giêsu Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại cũng được thừa kế gia nghiệp với người do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa ban” Eph 3,6. Mộc dược là lễ vật dành cho người chết, là hương liệu để xông xác người. Chúa Giêsu đến thế gian để sống cho con người và cuối cùng chết cho con người. Cái chết của Ngài biểu lộ sự trung thành đối với loài người mà Ngài đã yêu thương đến tận cùng Ep 13, 1. Chúa Giêsu không nghĩ tới mình, vì lẽ đó Ngài có thể đón tiếp mọi người và lắng nghe mọi người đến với Ngài. Cuộc sống Chúa Giêsu là một cuộc tự hiến cho con người để cứu độ con người. Qua Kinh Thánh và lịch sử của ơn cứu độ, ta biết có nhiều tâm hồn khao khát đi tìm kiếm và mong chờ Chúa. Khi thời gian chuẩn bị đã mãn, dấu chỉ đã tỏ hiện, lòng con người thôi thúc khát mong và mùa hồng ân đã cận kề, các Đạo Sĩ tìm hỏi “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.”Mt 2, 2. Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua trang Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết “Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa. Việc đi theo ngôi sao lạ để đến bái thờ và dâng Chúa những của lễ thật sự chẳng phải là việc giản đơn và cũng không phải ai cũng làm được như 3 nhà đạo sĩ. Muốn như vậy, trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa. Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô. Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách. Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ. Chúa mời gọi ta loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Và như vậy, ta hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những luồng sáng tự nhiên phát ra từ ta ấy, chắc chắn mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật. Về mục lục . THIÊN CHÚA TỎ MÌNH Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm Ngày xưa người ta quen gọi lễ Hiển Linh là lễ Ba Vua, sở dĩ vậy vì trong Tin Mừng đọc trong Thánh Lễ hôm nay, ba nhà đạo sĩ tìm kiếm để bái yết hài nhi Giêsu. Ba nhà đạo sĩ là những người trổi trang về kiến thức uyên bác; họ có thể đọc dấu chỉ thiên nhiên để nhận ra sự xuất hiện của những người đặc biệt. Từ ngữ “vua” được dùng trong “ba vua” là để chỉ người trổi trang hơn người khác về phương diện nào đó. Qua biến cố mục đồng tới viếng hài nhi, người ta nhận ra Thiên Chúa đã tỏ mình cho những người Do Thái nghèo nhưng có tâm hồn mở rộng sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa. Với biến cố ba nhà đạo sĩ đi viếng hài nhi, Giáo Hội nhận ra Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Người Do Thái cho rằng họ là dân được tuyển chọn, còn các dân tộc khác là dân ngoại. Với biến cố Đức Giêsu và việc các dân tộc khác đón nhận Tin Mừng, người ta nhận ra rằng tất cả mọi dân tộc đều thuộc về Thiên Chúa, tất cả các dân tộc đều được Thiên Chúa yêu thương như dân tộc Do Thái. Hôm nay với trình thuật các đạo sĩ tìm kiếm và bái lạy Đức Giêsu, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa cũng mặc khải cho dân ngoại. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại như Ngài đã từng yêu thương dân tộc Do Thái. Mọi dân tộc đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc, mọi con người, chứ không phải chỉ riêng dân tộc Do Thái. Kitô hữu phải là người cảm nghiệm sâu xa tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, và đặc biệt cho chính mình. Kitô hữu cũng phải là người sống bình an và hạnh phúc, vì ý thức mình là tạo vật được Thiên Chúa yêu thương. Ngài tha thứ mọi lỗi lầm, và không chỉ vậy, còn mời gọi mọi người vào chia sẻ sự sống vĩnh cửu hạnh phúc với Thiên Chúa. Một khi phần nào cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa và bình an hạnh phúc, Kitô hữu thấy mình phải chia sẻ niềm vui này, tin mừng này cho những người anh em của mình chưa biết Đức Giêsu, ngõ hầu họ cũng có niềm vui này. Bản chất Kitô hữu là rao giảng Tin Mừng, làm cho muôn dân được nghe, hiểu và sống đáp trả tình yêu Thiên Chúa. Ngày nay nhiều người “dị ứng” với từ ngữ truyền giáo, vì từ ngữ này gợi lên nơi người ta ấn tượng rao giảng để kéo người khác bỏ đạo của họ để theo Kitô giáo. Nếu có ý hướng như vậy, người ta mang nặng tính phe phái và giành giựt nhiều hơn là chia sẻ tin mừng. Một Kitô hữu đúng nghĩa phải là người muốn chia sẻ tin mừng với người khác, vì mình nghĩ rằng biết Đức Giêsu là điều rất tốt và ích lợi cho mọi người. Tuy nhiên, Kitô hữu phải là người luôn tôn trọng người khác, tôn trọng tự do và tín ngưỡng của tha nhân; nếu ai đó đón nhận Tin Mừng, thì đó là vì chính họ thấy sự thật, họ cũng được bình an và hạnh phúc hơn khi trở thành Kitô hữu. Khi một Kitô hữu muốn rao giảng tin mừng, họ phải tự vấn chính mình “niềm tin vào Đức Giêsu mang gì lại cho tôi? Tin vào Đức Giêsu, có làm cho tôi sống bình an và hạnh phúc hơn không? Nếu tin vào Đức Giêsu Phục Sinh không giúp gì cho tôi, thì tại sao tôi lại muốn làm cho người khác trở thành Kitô hữu như tôi?” Lời mời gọi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh đòi Kitô hữu phải xét lại niềm tin của mình, lối sống của mình. Nếu đời sống của tôi không là đời sống toát lên nét tươi vui của một người hạnh phúc, thì làm sao tôi có thể rao giảng tin mừng được! Nếu tôi sống u buồn thất vọng, tôi là phản chứng cho Tin Mừng Phục Sinh. Tôi phải sống sao, để đời sống của tôi không trở thành phản chứng. Kitô hữu là người có Chúa Kitô nơi mình, là người bạn của Đức Giêsu Kitô, là người muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cách sống của Đức Giêsu Kitô phải là cách sống của mỗi Kitô hữu. Kitô hữu phải là người có cùng chọn lựa với Đức Giêsu Kitô, phải biết yêu thương con người hôm nay như chính Đức Giêsu đã yêu, phải là người yêu đến cùng anh em mình, người thân mình, những người mình gặp gỡ, và thậm chí cả những kẻ không ưa và ghét mình. Đức Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ giết Ngài, Kitô hữu cũng phải tha thứ cho những người làm hại họ. Kitô hữu phải là người trung thành như Thiên Chúa là Đấng Thành Tín. Thiên Chúa không bao giờ phản bội, và Kitô hữu cũng không bao giờ được phản bội ai. Không làm hại ai. Chỉ muốn điều tốt cho tha nhân, chỉ tìm lợi ích cho người khác chứ không làm hại họ, đó phải là cách sống của Kitô hữu. Có được như vậy, nhiều người sẽ ngạc nhiên và sẽ tìm hiểu niềm tin của Kitô hữu; để rồi nếu họ muốn họ có thể chia sẻ niềm tin Kitô hữu, để họ cũng được bình an và hạnh phúc như những Kitô hữu. Kitô hữu phải là men trong bột, phải là ánh sáng cho thế gian. Kitô hữu tuy có cùng nỗi bận tâm và gian nan như bất cứ con người nào sống trên đời, nhưng ánh sáng đức tin đã soi sáng cho họ, giúp họ tuy sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian. Câu hỏi gợi ý chia sẻ Bạn có muốn người khác có cùng niềm tin với bạn không? Tại sao? Nếu không tin vào Đức Giêsu, bạn có được như hiện tại không? Tại sao? Phải rao giảng thế nào để con người ngày nay dễ đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu Kitô? Về mục lục . CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH_C Lm. Antôn Ông bà anh chị em thân mến. Lễ Chúa Hiển linh hôm nay có nghĩa là Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta biết tình yêu, lòng thương xót và ơn cứu độ của Ngài qua sự nhập thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Vì yêu thương nên Thiên Chúa đã khiêm nhường sinh xuống trần, mặc lấy thân phận yếu hèn của con người, và sống giữa chúng ta. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết câu chuyện ba nhà đạo sĩ từ Phương Đông xa xôi, bây giờ là quốc gia I-ran, được ngôi sao trên bầu trời dẫn lối chỉ đường vượt núi đồi, khó khăn và nguy hiểm, tìm đến Belem và gặp Hài Nhi Giêsu đang nằm trong máng cỏ, có sự hiện diện của Đức Maria và thánh Giuse. Chúng ta có thể hình dung được trạng thái của các đạo sĩ trong những giây phút đầu tiên gặp gỡ. Có lẽ các đạo sĩ ngạc nhiên và ngỡ ngàng với khung cảnh khó tin trước mắt, không phải là nơi cung điện nguy nga hay cao sang quyền quí và đủ mọi tiện nghi. Nhưng một điều chắc chắn là các ông không lầm lạc. Như các mục đồng chăn chiên đã được thiên thần loan báo và chỉ dẫn, các ông nhận ra và tin thật đây là Vị Vua, Đấng Cứu Thế, vì đã được Kinh thánh cho biết và ngôi sao sáng dẫn đường. Sau đó các đạo sĩ đã tâm tình thờ lạy và dâng lễ vật trân quí cho Chúa. Chúng ta biết trong ngày Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh xuống trần đã không được dân Ngài đón tiếp. Họ đã từ chối khiến Ngài phải sinh ra trong một nơi ở của súc vật, đúng như Tin mừng thánh Gioan nói “Ngài đã đến nơi nhà của Ngài, mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài.” Vì sự từ chối của dân Chúa, tình yêu ơn cứu độ giờ đây được ban cho dân ngoại, mà ba đạo sĩ từ Phương Đông xa xôi là đại diện, như lời báo trước của ngôn sứ I-sa-i-a “Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.” Như thế, ông bà anh chị em thân mến, với sự giáng sinh nhập thể của Chúa Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa, tình yêu, lòng thương xót và ơn cứu độ không còn bị giới hạn trong một dân tộc hay một miền đất nào nữa, nhưng được ban cho hết mọi người. Đây là một mầu nhiệm và là hồng ân của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu không biên giới, không phân biệt và ban cho hết mọi người, người tốt người xấu, người lành kẻ dữ, cho tất cả mọi người trần thế. Tình yêu cao cả của Thiên Chúa bao la, không biên giới, không giới hạn, và hằng tuôn đổ xuống trên mọi người. Thiên Chúa tiếp tục mạc khải tình yêu và hồng ân của Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận biết có người sẳn sàng tiếp đón, và có những người từ chối. Tuy nhiên, để đón nhận được tình yêu và hồng ân cao quí đó, mỗi người chúng ta cần mở rộng tâm hồn để tiếp nhận, và chúng ta có thể học được nơi ba vị đạo sĩ những phương cách để tiếp nhận. Phương cách thứ nhất mà chúng ta có thể học được nơi các đạo sĩ là tấm lòng khao khát chân thật tìm kiếm Chúa, tìm kiếm sự mạc khải cũng như thánh ý Chúa trong Kinh thánh cho chúng ta. Chúng ta thấy các đạo sĩ có lòng khao khát tìm kiếm Vị Vua, cho nên các ngài đã dùng thời giờ học hỏi nghiên cứu Kinh Thánh để biết ngày giờ, nơi chốn và dấu chỉ. Chúng ta nhận biết mặc dù ở tận Phương Đông xa xôi và giữa bầu trời đầy sao, các đạo sĩ vẫn liên tục tìm kiếm, học hỏi để phát hiện vị sao lạ giữa muôn ngàn tinh tú. Và để nhận ra rõ và chắc chắn ngôi sao này là điềm báo vị Vua mới sinh ra, các đạo sĩ đã phải dựa vào Kinh Thánh trong sách Dân số đã cho biết “Một ngôi sao mọc lên từ Gia-cóp, một vương trượng xuất từ Israel” Ds 24, 17 Phương cách thứ hai mà chúng ta học được nơi các đạo sĩ để tiếp nhận tình yêu và hồng ân của Chúa là sự kiên nhẫn. Chúng ta biết trong cuộc hành trình tìm đến, ngôi sao dẫn đường đột nhiên biến mất làm cho các đạo sĩ lo sợ và phân vân “Không biết có nên tiếp tục cuộc hành trình hay trở lại quê nhà?” Họ đã phải hỏi những người Do thái “Vua người Do thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người.” Các đại giáo trưởng và luật sĩ người Do thái đã cho các đạo sĩ biết qua lời Thánh Kinh “Tại Be-lem, thuộc xứ Giuda, vì đó là lời do Đấng tiên tri đã chép.” Sự kiên nhẫn và lòng nhiệt thành của họ đã được đền đáp xứng đáng “Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng.” Phương cách cuối cùng mà chúng ta có thể học được nơi các đạo sĩ là ý chí lên đường hành động, hay thực hành Lời Chúa chỉ dạy. Các đạo sĩ biết Kinh thánh và nhìn thấy ngôi sao chỉ đường, nhưng tất cả những điều đó sẽ không ích lợi gì, nếu họ không lên đường thực hành cuộc hành trình tìm đến. Họ biết cuộc hành trình xa xôi, khó khăn và nguy hiểm, nhưng với ý chí kiên cường tìm đến Vị Vua, cho nên họ đã chỗi dậy lên đường, thực hành lời Kinh thánh chỉ dạy. Các đạo sĩ tin sẽ được trợ giúp để tìm gặp được người mong ước. Ông bà anh chị em thân mến. Trong lúc tôi đọc, suy nghiệm câu chuyện ba đạo sĩ tìm kiếm Chúa, bất thình lình tôi nghĩ đến những điểm tương đồng trong việc chúng ta đến tham dự Thánh lễ hàng tuần. Tôi tin tất cả chúng ta được chính Chúa Ki-tô chỉ dẫn trong Tin mừng, cũng như thôi thúc chúng ta tìm đến với và gặp Chúa trong Bí tích Thánh Thể, để tiếp nhận thánh ý Chúa trong Lời Chúa, và hồng ân tình yêu của Chúa trong Thánh Thể. Chúng ta tin Lời Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống cho chúng ta trong cuộc hành trình đức tin nơi trần gian đầy những sự khó khăn, thử thách và nguy hiểm, và Thánh Thể là nguồn sức mạnh bảo tồn ý chí giúp chúng ta can đảm vượt qua. Đời sống đức tin của chúng ta là một cuộc hành trình đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có tấm lòng chân thành khao khát, kiên nhẫn và thiện chí như ba đạo sĩ, và phải can đảm thực hành Lời Chúa chỉ dẫn, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách. Ba đạo sĩ không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao sáng, loan báo và chia sẻ tình yêu thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng toả ánh sáng lòng thương xót của Chúa đến những người sống chung quanh chúng ta, để qua ánh sáng tình yêu và thương xót Chúa, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên Chúa là ánh sáng chân thật, và tiếp nhận ơn cứu độ của Chúa. Nhân dịp đầu năm mới 2016, xin cầu chúc tất cả ông bà anh chị em có một đời sống đức tin trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn đến với Chúa. Về mục lục . NƠI HÀI NHI GIÊSU, THIÊN CHÚA MUỐN HIỂN LINH THỨ VINH QUANG NÀO? Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty Tôn giáo nào thì cũng muốn cho vị thần linh mình tôn thờ được vinh hiển; đó là một tình cảm tôn giáo đáng quí nhưng cũng thật đáng sợ, vì nó đã từng và còn đang là nguyên nhân gây nên biết bao cuộc bắt hại, chiến tranh tôn giáo, hay các thủ đoạn khủng bố ác độc hòng triệt hạ đối phương. Lịch sử nhân loại đã ghi lại không ít các cuộc chiến tranh tôn giáo khốc liệt. Có phải Hiển Linh chúng ta mừng hôm nay cũng là làm cho vinh quang Thiên Chúa được rạng rỡ, cho quyền năng Người được hiển hách, cho dầu đang bị ẩn dấu trong hình hài một trẻ thơ bé bỏng yếu hèn? Có một thời tôi đã cảm thấy kiêu hãnh Có thế chứ… phải có những ông vua tới bái lạy, tới triều cống các lễ vật quí giá, thế mới xứng đáng danh phận vương giả của Ngài chứ! Phải có những vì sao lạ xuất hiện trên bầu trời để mà cả và thiên hạ trầm trồ ca tụng Ngài! và tôi lấy làm hả dạ về lễ Chúa Hiển Linh. Tình cảm đó thực ra là gì, một nhiệt tình tôn giáo cao quí đáng đề cao, hay chỉ là một đầu óc háo thắng thiển cận triumphalism? Thật ra câu chuyện về các chiêm tinh gia thường được dân có đạo nâng lên hàng vua chúa cho nó oai lễ Ba Vua’ đến bái lạy Hài Nhi Giê-su chỉ được Phúc Âm Mát-thêu ghi lại với chủ đích, như ông vẫn quen làm, để khảng định “thế là ứng nghiệm” những lời các tiên tri đã báo trước xung quanh việc Hài Nhi ra đời Hài Nhi sinh ra tại Bê-lem miền Giu-đê, rồi chạy trốn qua, rồi lại trở về từ Ai-cập xa xôi Tự nó câu chuyện rõ ràng mang tính truyền thuyết tới độ tôi dám nghĩ rằng, nó được thuật lại hầu nâng cao tình cảm tôn giáo nơi các tín hữu. Vấn nạn mấu chốt được nêu lên là nếu Hài Nhi mới sinh tại Bê-lem được hiển linh, thì là hiển linh điều gì? Nói cách khác, đâu là thứ vinh quang đích thực mà Hài Nhi nghèo hèn này muốn bộc lộ? Ba nhà chiêm tinh hay đạo sĩ là những con người uyên bác, chuyên tìm hiểu những qui luật của trời đất. Qua tinh tú chuyển vận, các ông đoán biết một nhận vật quan trọng mới xuất hiện; nhân vật này, như các ông tính toán, có liên quan chặt chẽ tới việc thay đổi vận mạng của toàn dân thiên hạ; chính vì lẽ đó mà các ông mới cất công lên đường đi tìm Ngài. Theo lô-gích của các ông nhân vật này hẳn phải là một vị vua đầy uy lực, cho nên Ngài phải sinh sống trong chốn cung đình; và thế là họ tìm tới Giê-ru-sa-lem – kinh thành của vương triều Da-vit; thế nhưng ở đó, họ chỉ gặp được Hê-rô-đê, một con người ham quyền đầy mưu mô hiểm độc. May mắn thay các ông vẫn còn một vị dẫn đường khác một ngôi sao lạ’; và các ông quyết định đi theo nó. Nó dẫn các ông tới một nơi chưa ai từng bao giờ ngờ tới làng quê Bê-lem hẻo lánh, và tới một hài nhi mới sinh nằm gọn trong lòng một bà mẹ đơn sơ nghèo hèn. Tín hữu chúng ta nắm rất rõ ngôi sao lạ đó tượng trưng cho niềm tin vào Tin mừng của mỗi chúng ta. Vâng, chỉ có Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô mới có khả năng dẫn chúng ta tới gặp một vị Thiên Chúa, không chút hiển hách, không đầy uy lực, nhưng là một Thiên Chúa quá ư gần gũi, quá là con người trong hình hài một trẻ thơ, Thiên Chúa cứu độ của lòng từ nhân và hay thương xót, chứ không phải một Thiên Chúa quyền uy, công thẳng luận phạt. Nếu ba đạo sĩ đã phải gác qua một bên cái thứ lô-gích khôn ngoan thông thái thường ngày của họ để sấp mình bái lạy một trẻ thơ trong căn lều nghèo nàn, thì Ki-tô hữu cũng vậy, càng cho mình là đạo đức chính trực bao nhiêu, họ lại càng phải để cho đức tin làm một cuộc cách mạng nơi mình, tôn thờ bái lạy vinh quang Thiên Chúa trong sự hiền lành, từ nhân, thương xót và hay tha thứ. Câu truyện còn cho thấy có đối kháng sâu sắc giữa một bên là uy quyền thống trị và trừng phạt điển hình là vua Hê-rô-đê, với bên kia là sự yếu đuối ẩn dật của một Hài Nhi bé bỏng nép mình bên hông mẹ. Quyền uy chinh phục có sức mạnh của nó và xem ra không thể đội trời chung với lòng trắc ẩn nhân ái; cũng như uy quyền của bạo vương Hê-rô-đê không thể đem ra chia sẻ với Tân Vương cứu độ mới sinh ra. Ở đâu có nghiêm minh, ở đó không thể có chỗ cho lòng trắc ẩn xót thương, và ngược lại sự công thẳng nổi cộm như một quyền lực thống trị trong khi lòng nhân ái lại luôn tỏ ra quá yếu ớt và lép vế. Chính vì thế mà một khi đề cao lòng trắc ẩn thương xót thì nhiều người lại tỏ ra e dè sợ sệt; họ lo sợ sự hợp lý đầy uy lực của lành thưởng dữ phạt’ sẽ bị phá đổ, và thế là họ rắp tâm tiêu diệt’ lòng nhân ái xót thương, ít là trong tư duy của riêng họ. Thiên Chúa giáng trần đã chọn hình hài một thơ nhi yếu đuối ẩn dật để biểu lộ lòng xót thương cứu độ con người, đó quả là vô cùng hợp lý… Có điều lúc này đây, Người đang bị những mưu toan tiêu diệt hiểm độc của tên bạo chúa quyền uy…, để rồi hơn ba chục năm sau sẽ bị chính con của hắn đồng lõa với đế quốc Rô-ma thống trị, kết án tử đóng đinh vào thập giá. Tôi sẽ tin vào Thiên Chúa nào Thiên Chúa quyền uy cao cả hay Thiên Chúa nghèo hèn nhưng đầy lòng xót thương? Lạy Hài Nhi đang ngủ yên trong vòng tay âu yếm của Mẹ hiền, xin cho con đặt cược toàn bộ cuộc sống con trên sự nhỏ bé, yếu đuối của lòng thương xót Chúa. Chính những lúc tâm hồn con lo sợ cuống quýt trước quyền lực ghê sợ của công thẳng, xin cho con can đảm lao mình vào vòng tay hiền mẫu, để con cũng có được giấc ngủ an lành trong tin tưởng phó thác vào lòng Chúa xót thương. Xin che chở để con không bao giờ bị sự công thẳng Chúa nhấn chìm trong lo âu sợ hãi, một vui hưởng sự an bình của những tâm hồn biết tín thác trọn vẹn vào lòng nhân ái yêu thương. A-men. Về mục lục . ÁNH SAO LẠ DẪN ĐƯỜNG GIÚP LƯƠNG DÂN GẶP GỠ CHÚA Lm. Đan Vinh I. HỌC LỜI CHÚA TIN MỪNG Mt 2,1-12 1 Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem 2 và hỏi “Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”. 3 Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. 4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng tế, các Kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở dâu. 5 Họ trả lời “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách Ngôn sứ có chép rằng 6 “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa. Vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”. 7 Bấy giờ Vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. 8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. 9 Nghe Nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại. 10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. 11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. 12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp Vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình”. Ý CHÍNH Qua ánh sao lạ, Thiên Chúa đã soi sáng cho các đạo sĩ tìm đến thờ lạy Con Chúa mới giáng sinh, đang khi vua chúa và các đầu mục dân Do thái lại tỏ thái độ thờ ơ, thậm chí còn thù ghét cố tình hãm hại Người. CHÚ THÍCH -C 1-2 +Bê-lem Một thị trấn nhỏ bé nằm cách thủ đô Giê-ru-sa-lem khoảng 7 cây số về phía Nam. Thị trấn này tuy nhỏ bé nhưng rất danh tiếng, vì là quê hương của vua Đa-vít. Bê-lem còn được Ngôn sứ Mi-kha tuyên sấm là nơi mà Đấng Cứu Thế sẽ ra đời x. Mk 5,1. +Mấy nhà chiêm tinh Là những đạo sĩ hay chiêm tinh gia đã từng đọc Thánh Kinh của Do thái giáo nên có sự hiểu biết về việc Đấng Thiên Sai sắp xuất hiện và muốn được gặp gỡ Người. Dựa vào lễ vật các ngài mang theo là những đặc sản của xứ Arabi, nên người ta đóan các ngài từ xứ Arabi mà đến. Đồng thời dựa vào số lễ vật, người ta cho rằng có 3 vị. Đến thế kỷ VIII, có người còn kể rõ tên của ba vị đạo sĩ ấy là Men-ki-o Melchior, Ban-thơ-da Balthezar và Gát-pa Gaspar, đại diện cho ba châu lục thời bấy giờ là châu Âu da trắng, châu Á da vàng và châu Phi da đen. -C 11-12 +Vàng, nhũ hương và mộc dược Các giáo phụ đã giải thích Vàng ám chỉ tước vị Vua; Nhũ hương chỉ chức vụ Thượng tế; Mộc dược chỉ con đường cứu thế của Đấng Thiên Sai chọn là sẽ bị giết chết trên thập giá và được mai táng trong mồ. Tuy nhiên, ngày nay có người lại giải thích về ý nghĩa của ba lễ vật được các đạo sĩ dâng lên Hài Nhi Cứu Thế như sau Vàng tượng trưng đức Tin vào Thiên tính của Đấng Thiên Sai; Nhũ hương tượng trưng đức Cậy là lời cầu nguyện như hương trầm bay lên để tôn vinh Chúa; Mộc dược tượng trưng cho đức Mến là những hy sinh và quyết tâm từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. CÂU HỎI 1-Bạn biết gì về thành Bê-lem? 2-Chiêm tinh gia là hạng người thế nào? 3-Các ngài từ đâu đến và gồm bao nhiêu vị? 4-Ba lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược được dâng cho hài nhi Cứu Thế có ý nghĩa ra sao? II. SỐNG LỜI CHÚA LỜI CHÚA Thánh Phao-lô dạy các tín hữu “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời” Pl 2,15b. CÂU CHUYỆN 1 MÓN QUÀ CỦA AR-TA-BAN. HĂNG-RI VĂNG ĐAI-KƠ Henry Van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề “CÒN MỘT NHÀ ĐẠO SĨ KHÁC NỮA”, kể về nhân vật thứ tư là người lẽ ra đã cùng ba nhà đạo sĩ đi tìm Vua dân Do thái mới sinh. Nhân vật này tên là Ar-ta-ban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Ar-ta-ban có mang theo một túi đựng những viên kim cương để dâng tặng cho vị ấu vương. Thế nhưng trên đường đến điểm hẹn, Ar-ta-ban đã phải dừng chân để giúp đỡ một người nghèo đói nằm bên vệ đường. Do đó khi đến nơi thì ông không còn thấy ba vị kia đâu. Dù vậy, ông vẫn kiên trì tiếp tục cuộc hành trình đi tìm Vua Cứu Thế. Trên đường tìm kiến, mỗi lần gặp một người khốn khổ, ông lại bán đi một viên kim cương để giúp đỡ. Sau nhiều năm, Ar-ta-ban đã dần dần trở thành một lão già ốm yếu, thế mà ông vẫn chưa gặp được Vua Do thái như lòng hằng mong ước. Rồi 33 năm sau, khi đang trọ trong thành Giê-ru-sa-lem, Ar-ta-ban thấy cả thành xôn xao náo động vì cái tin nhà cầm quyền đang đem một tội nhân đi hành hình thập giá. Ar-ta-ban tò mò hoà theo dòng người đi xem. Khi nhìn thấy tội nhân đang vác cây thập tự bị té ngã nhiều lần, linh tính cho biết đó chính là vị Vua Cứu Thế mà ông hằng tìm kiếm. Ong liền đi theo Người trên đường thương khó. Rồi khi tội nhân bị đóng đinh và bị treo trên thập giá, Ông muốn đến gần ôm lấy vị Vua kia, nhưng không thể được vì bị bọn lính canh ngăn cản. Bỗng chốc Ar-ta-ban thấy vị Vua mở mắt ra nhìn ông và ông nghe thấy có tiếng thì thầm bên tai rằng “Này Ar-ta-ban, con đừng buồn nữa. Ta cám ơn con vì bao năm qua đã nhiều lần con tặng quà cho Ta. Nhiều lần Ta đói con đã cho bánh ăn, Ta khát con đã cho nước uống, Ta rách rưới con đã cho đồ mặc, Ta là khách lạ con đã đón ta vào nhà ở trọ…”. Nghe những lời ấy, Ar-ta-ban cảm thấy lòng tràn ngập niềm vui. Ông hiểu rằng Các món quà xưa nay ông đã chia sẻ cho người nghèo là ông đã dâng tặng cho chính Vua Giê-su Cứu Thế. Món quà đó không nhất thiết phải là tiền bạc vật chất, nhưng còn là tình người, là sự thông cảm với những ai đang bị đau khổ, là thái độ khiêm tốn sẵn sàng phục vụ tha nhân vô vụ lợi. 2 THÁI ĐỘ KHIÊM TỐN PHỤC VỤ LÀ ÁNH SAO LẠ DẪN ĐƯỜNG HÔM NAY Vào một buổi chiều mùa đông, một người ngoại quốc tuổi trung niên lái xe trên con đường đèo vắng vẻ ở miền Trung Việt Nam. Đến một khúc quanh, phát hiện thấy một chiếc xe hơi chết máy đang nằm trên đường, gần bên là bốn người gồm hai vợ chồng và 2 đứa con nết mặt lo âu, vì đây là đoạn đường thường hay xảy ra cướp bóc. Do biết sửa xe hơi, nên người đàn ông ngoại quốc đã dừng xe mau mắn đến bên đề nghị giúp đõ khiến mọi người đều an tâm vui vẻ. Chiếc xe bị hỏng nặng khiến ông phải vất vả tháo rời nhiều bộ phận trong máy, thậm chí có lúc phải chui cả xuống gầm xe. Hai giờ sau thì chiếc xe đã nổ máy khiến mọi người đều mừng rỡ. Hai vợ chồng muốn trả công nhưng ông kia không lấy công. Cuối cùng họ đã xin địa chỉ và một tuần sau, hai vợ chồng có dịp đến thăm thì mới hay người đàn ông ngoại quốc giúp họ sửa xe hôm trước chính là một giám mục công giáo. Sau đó do nể phục nên cả gia đình đều xin theo đạo. Chính thái độ khiêm tốn phục vụ vô vụ lợi của vị giám mục người ngoại quốc đã trở thành ánh sao dẫn đường giúp cả gia đình lương dân nhận biết tin thờ Chúa. 3 HÃY BIẾT CẢM THÔNG CHIA SẺ CƠM ÁO VẬT CHẤT VỚI NGƯỜI NGHÈO KHỔ Có một bé gái đi theo mẹ đi viếng hang đá tại nhà thờ. Bà mẹ giải thích cho em rằng ba nhà Đạo Sĩ dâng tiến của lễ cho Chúa Hài Nhi là vàng, nhũ hương và mộc dược. Cô bé nhìn Hài Nhi trong máng cỏ một cách cung kính rồi quay sang hỏi mẹ Tại sao họ không mang đến cho Chúa Hài Nhi một cái giường nhỏ để Chúa phải nằm trong máng cỏ tội nghiệp Chúa quá phải không mẹ? Do có tấm lòng nhân ái và sự quan tâm thực sự đến hài nhi Giêsu, nên cô bé đã cảm nhận được nhu cầu của cuộc sống. Sự kiện Chúa Giêsu sinh ra nơi hang lừa, máng cỏ đã khơi dậy được tâm tư và sự cảm thông của nhiều người. Chúa đến trong nghèo hèn để mời gọi chúng ta hãy biết mở lòng chia sẻ tâm tình vật chất với những người cùng khổ nghèo đói bất hạnh. Nhu cầu thực tế của cuộc sống là miếng cơm manh áo và một chỗ nương thân. Chúa kêu gọi chúng ta hãy mở lòng cảm thông với người nghèo gần bên “Ta bảo thật các ngươi mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”Mt 25, 40. THẢO LUẬN 1Tại sao dân ngoại từ phương trời xa đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế, đang khi các nhà kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở gần Bê-lem lại không gặp được Người? 2 Trong môi trường sống và làm việc hiện tại, bạn cần phải làm gì để chiếu sáng giúp anh em lương dân nhận biết và tin theo Đức Giê-su? SUY NIỆM Lễ Hiển Linh theo truyền thống, được cử hành vào ngày 6 tháng Giêng. Dịp Lễ này, các tín hữu Tây Phương tưởng nhớ ba nhà Đạo Sĩ thăm viếng Chúa Hài Nhi Giêsu và sự biểu lộ thần tính của Con Chúa cho Dân Ngoại. Các ngài là những đạo sĩ hay chiêm tinh gia đã từng đọc Thánh Kinh của Do thái giáo nên có sự hiểu biết về việc Đấng Thiên Sai sắp xuất hiện và muốn được gặp gỡ Người. Dựa vào lễ vật các ngài mang theo là những đặc sản của xứ Arabi, nên người ta đóan các ngài từ xứ Arabi mà đến. Đồng thời dựa vào số lễ vật, người ta cho rằng có 3 vị. Đến thế kỷ VIII, có người còn kể rõ tên của ba vị đạo sĩ ấy là Men-ki-o Melchior, Ban-thơ-da Balthezar và Gát-pa Gaspar, đại diện cho ba châu lục thời bấy giờ là châu Âu da trắng, châu Á da vàng và châu Phi da đen. 1 Một số nét tương phản trong bài Tin Mừng hôm nay – Giữa thủ đô Giêrusalem và thị trấn Belem Giêrusalem là thủ đô hoa lệ, là trung tâm về chính trị và văn hoá của nước Do thái, nhưng lại từ chối tiếp nhận Hài Nhi Cứu thế, đang khi Bêlem chỉ là một thị trấn nhỏ bé nghèo nàn lại đón tiếp Đấng Cứu thế giáng sinh. – Giữa những người Do thái giáo và lương dân Các Tư tế và Kinh sư thông thạo Kinh thánh, nhưng lại lười biếng không dám dấn thân lên đường, nên họ đã không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba vị Đạo Sĩ là những dân ngoại không hiểu biết Kinh thánh, nhưng lại có thái độ cầu thị, luôn tìm tòi và sẵn sàng dấn thân lên đường, nên đã gặp được Đấng Cứu Thế. – Giữa vua thế tục và Vua Thiên Sai Hêrôđê được gọi là vua, nhưng lại lo âu vì sợ bị Đấng Cứu Thế đến sẽ cướp mất ngai vàng của mình, nên ông đã tìm cách bắt bớ tiêu diệt Người. Còn Đức Giêsu Vua Thiên Sai lại chấp nhận lối sống khó nghèo, luôn mở rộng vòng tay để đón tiếp hết mọi người. Người không thích đóng khung đạo của Người trong cơ chế luật lệ cứng nhắc như đạo Do thái, nhưng Người luôn tỏ ra mềm dẻo khi tuyên bố “Ngày sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” Mc 2,27. Người không đến trong cung vàng điện ngọc sang trọng như một bậc vua chúa, nhưng chọn đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến như một ông vua trần thế cao sang, nhưng đến với hình hài của một hài nhi yếu đuối nghèo hèn ”Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ” Lc 2,7. 2 Điều kiện để gặp được Chúa Tất cả những tương phản ấy cho thấy Không phải cứ mang danh người có đạo là đương nhiên chúng ta sẽ gặp đựơc Chúa; Không phải cứ có sự hiểu biết giáo lý Kinh thánh là đương nhiên chúng ta sẽ gặp được Chúa. Muốn gặp được Chúa, chúng ta phải thành tâm thiện chí đi tìm và hăng hái dấn thân lên đường như ba vị đạo sĩ hôm nay. – Ba đạo sĩ là những người ngoại giáo ở rất xa, nhưng luôn để tâm tìm kiếm dấu lạ trên bầu trời, và đã sớm nhận ra sự xuất hiện của một ngôi sao lạ của Đấng Cứu Thế. – Việc đi theo ngôi sao lạ cũng đòi các đạo sĩ phải quyết tâm cao rời bỏ nhà, giã từ người thân với những tiện nghi, chấp nhận cảnh thiếu thốn trong cuộc hành trình dài. Khi ngôi sao biến mất, các Ngài không nản chí bỏ cuộc, nhưng tìm hỏi trong đền vua, và cuối cùng nhờ quyết tâm cao như vậy, các ngài đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế tại thị trấn Belem. – Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Ngày nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta cũng phải là một ngôi sao lạ loan báo lòng Chúa thương xót, giúp dẫn đưa những người thiện chí tìm gặp Chúa. Mỗi người chúng ta phải là một ngôi sao sáng về sự công bình và bác ái. Hãy chiếu ánh sáng ấm áp của tình người đối với mọi hạng người trong xã hội. Qua đó, anh em lương dân sẽ nhận biết và tin yêu Chúa chính là nguồn sáng đích thật. 3 Lời Chúa là ánh sao chỉ đường cho chúng ta Tác giả sách thánh vịnh đã khẳng định như sau “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” Tv 119, câu 105. Chúa Giêsu cũng đã đồng hóa với người nghèo hèn “Tất cả những gì anh em làm cho một người trong những anh em hèn mọn nhất của Ta đây là làm cho chính Ta.” Mt 25, 40. Những lời Chúa phán chính là ánh sáng giúp chúng ta nhận ra Chúa đang hiện thân trong tha nhân, đặc biệt trong những người nghèo hèn, đau khổ… để khuyến khích chúng ta phục vụ họ. Lễ vật của chúng ta hôm nay dâng Chúa không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược như các đạo sĩ xưa, nhưng là bộ quần áo, chén cơm, sách vở bút mực cho người nghèo, hay là sự ân cần săn sóc người bệnh tật già cả neo đơn chung quanh chúng ta. 4 Ánh sao lạ giữa đời thường Mỗi Ki-tô hữu phải là một ánh sao lạ thể hiện qua cử chỉ, lời nói, việc làm Chỉ cần một nụ cười vui vẻ, một ánh mắt thân thiện, một lời khen đúng lúc, một việc phục vụ khiêm hạ của chúng ta cũng có thể phát ra ánh sáng giống như ánh sao lạ trên bầu trời đêm cho các đạo sĩ xưa, như lời thánh Phao-lô “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời” Pl 2,15b. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể là những vì sao sáng thực sự khi chúng ta biết làm cho mình lu mờ đi để Ngôi Sao Mai là Đức Ki-tô có thể tỏa sáng trong chúng ta và trong lòng mọi người x. Kh 2,28. 5. NGUYỆN CẦU -LẠY CHÚA GIÊ-SU. Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời mặt trăng, và các lọai ánh sáng phát xuất từ các nguồn năng lượng khác nhau trên mặt đất. Tạ ơn Chúa đã gọi chúng con là “Ánh sáng cho trần gian”. Đây là một niềm vinh dự nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm rất nặng nề của chúng con. Xin cho ánh sáng của chúng con có sức đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng ra khỏi những người chung quanh. Xin cho chúng con luôn duy trì ngọn lửa tin yêu đã được Chúa thắp sáng trong lòng chúng con, và sẵn sàng làm theo Lời Chúa dạy qua từng phút giây của cuộc sống hằng ngày. -LẠY CHÚA. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn đang tiếp diễn trên thế gian và ngay trong lòng mỗi người chúng con. Ước chi chúng con đừng chỉ biết nguyền rủa bóng tối tội ác, mà còn biết làm cho ngọn đèn đức tin trong chúng con luôn cháy sáng đức ái, để cả trái đất này đều được ngập tràn ánh sáng tìn yêu của Chúa, nhờ đó sẽ giúp mọi người nhận biết tin yêu Chúa và được chia hạnh phúc Nước Trời với chúng con. X HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. Đ XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON Về mục lục .
Suy niệm Lời Chúa – Lễ Chúa Ba Ngôi năm C Xin dâng lời tôn vinh chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần Kh 1,8a Một đan sĩ nọ đã nói “Nếu ngày xưa Moisen đã không bước vào chỗ tăm tối và mù mịt trên núi Sinai, ông đã không gặp thấy Chúa. Cũng vậy, nếu chúng ta không thấy mình dốt nát và mù tối khi suy hiểu về Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được Ngài”. Điều này rất đúng khi chúng ta suy niệm về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà Giáo hội hôm nay mừng kính. Đây là mầu nhiệm căn bản nhất của đức tin Công giáo, đồng thời cũng là chân trời vĩ đại và tối tăm nhất đối với đầu óc suy lý của con người. Mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và thực ra chúng ta không thể hiểu nổi. Khi đối diện trước các thực tại của Thiên Chúa, chúng ta không thể nhận thức bằng lý trí nhưng chỉ có thể trải nghiệm bằng đức tin. Thái độ cần thiết nơi chúng ta không phải là đứng lên cách ngạo nghễ để vắt óc tìm tòi, nhưng phải quỳ gối xuống cách khiêm tốn trong cung chiêm và thờ lạy. Thực hành đức tin khi tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi. Trước khi bắt đầu làm bất cứ công việc gì, người Công giáo chúng ta luôn bắt đầu bằng dấu Thánh giá với lời tuyên tín Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Thánh Phaolô thường gửi lời chào thăm đến các cộng đoàn với văn thức xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội cũng dùng lại văn thức này để khởi đầu Thánh lễ khi vị linh mục chào chúc cộng đoàn “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em 2 Cor 13,13; Eph 1,2. Chúng ta nhớ lại giai thoại về thánh Augustinô. Khi ngài đi bách bộ bên bờ biển và suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, ngài gặp một em bé đang dùng cái vỏ sò để múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ tí xíu. Em bé nhắc nhở cho thánh nhân biết rằng, việc lấy một cái vỏ sò bé tí teo đong đầy nước biển xem ra khá xuẩn ngốc, nhưng việc dùng đầu óc chật chội của con người để cố nhét vào cả bầu trời bao la của mầu nhiệm Thiên Chúa còn xuẩn ngốc hơn gấp bội. Vì vậy, đi vào thế giới của mầu nhiệm, chúng ta phải hết sức khiêm tốn và nhận ra những bất toàn nơi đầu óc mình. Các thánh giáo phụ vay mượn ý nghĩa của 3 lời khuyên phúc âm để minh họa tình yêu đối với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống tinh thần khó nghèo chính là thể hiện niềm tin vào Chúa Cha, đấng quan phòng và luôn yêu thương con cái mình. Đức Khiết tịnh diễn bày tinh thần từ bỏ để sống với một tình yêu thuần khiết theo gương Chúa Giêsu. Sự Vâng phục của người tu sĩ mời gọi chúng ta mở lòng cho Chúa Thánh Thần tác động. Đó chính là ân ban của Thần Khí giúp chúng ta luôn biết tìm kiếm và quy thuận thánh ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha và về Thần khí tác sinh. Khi Ngài lãnh phép rửa tại sông Giorđan, mầu nhiệm Ba Ngôi từ từ được vén mở, qua tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống và Thánh Thần đậu xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Ngoài những điều mà Kinh thánh mạc khải, giáo huấn của Giáo hội cũng đầy ắp những gợi mở cho chúng ta về mầu nhiệm cao cả này. Đây là giáo lý căn bản và chúng ta vẫn thường xuyên tuyên xưng mầu nhiệm ấy mỗi khi chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá để cầu nguyện cùng Chúa Ba Ngôi. Phẩm tính căn bản của mầu nhiệm Ba Ngôi chính là tình yêu. Trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan, vị tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa qua một hạn từ rất đơn giản và cô đọng “Thiên Chúa là tình yêu” 1Ga 4,16. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng quyết rằng, Lòng thương xót’ là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa, bởi vì thương xót là cách hiển thị rõ nét về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Khi chiêm niệm về mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta hãy cảm nghiệm như Thánh Phaolô đã từng diễn tả “Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta Rm 5, 5b. Để mặc khải về tình yêu của Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với Nicôđêmô “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài để ai tin vào người Con, sẽ được sống. Ga 3,16. Vì thế khi chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, chúng ta bắt đầu sống ơn gọi làm con và khởi đầu sứ vụ thực hành tình yêu như Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đã nói “Mỗi người chúng ta được trao ban một sứ vụ để chu toàn, đó là sứ vụ của tình yêu”. Kết luận Một bữa nọ, ông Voltaire, một triết gia vô thần đi bách bộ với một anh bạn trên con đường quê ven rừng. Giữa giao lộ có một cây Thánh giá phủ đầy tuyết. Voltaire đã công khai bỏ đạo từ lâu, và hoàn toàn không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Ông còn ngạo nghễ chế diễu niềm tin của các Kitô hữu. Nhưng người bạn đang đi với ông lại có niềm tin rất sâu xa. Voltaire chỉ vào cây Thánh giá phủ đầy tuyết và nói với anh bạn “Đây là hình ảnh của tôn giáo ngày nay. Thiên Chúa của các anh đã bị văn minh khoa học phủ kín mặt mày và niềm tin tôn giáo đã bị sự lạnh lùng băng giá của con người hôm nay che lấp. Vì vậy, Thiên Chúa của các anh không còn lý do để hiện hữu nữa”. Chợt lúc đó, có một cơn gió mạnh thổi đến hất tung chiếc mũ trên đầu Voltaire và quăng xuống đất, đồng thời cơn gió đã làm tan chảy lớp tuyết bao phủ cây Thánh giá. Gương mặt Chúa Giêsu từ từ hiện lộ một cách rõ nét. Người bạn của Voltaire lúc đó mới trả lời ông “Này bạn, đây mới là hình ảnh đích thực của niềm tin tôn giáo ngày hôm nay. Cho dù con người vẫn lạnh lùng và chai cứng như lớp tuyết trắng che kín Thánh giá, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa vẫn dư sức hất tung sự kiêu ngạo của con người và làm tan chảy sự lạnh lùng nơi con tim sỏi đá của mọi người. Ngài luôn hiện hữu cho dù con người vẫn đang ra sức loại trừ Ngài”. Một nhà tu đức đã nói “Chúng ta hãy kiếm tìm Thiên Chúa chứ đừng tìm nơi ở của Ngài”. Chúa ở khắp mọi nơi và đang ở trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta hãy không ngừng đi kiếm tìm Ngài. Văn Hào, SDB
… Chúa Nhật sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm đứng đầu trong mọi mầu nhiệm, vượt khỏi mọi khả năng tri thức của con người, không thể suy thấu và chỉ cảm nhận được bằng sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa trong mỗi người, trong cuộc sống và trong lịch sử cứu độ. Thánh Kinh Cựu Ước trong một vài chỗ có mặc khải cho chúng ta cách không mấy rõ ràng về hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi trong khởi nguyên sáng tạo Thiên Chúa dùng Lời để sáng tạo và Thần Khí bay là trên hỗn mang x. St 1,1-3, hay với hình ảnh ba vị hiện ra với Abraham dưới cây sồi Mamre x. St 18,2… Đến thời Tân Ước, Chúa Giê-su lần lượt mạc khải từng ngôi vị Thiên Chúa. Đặc biện nơi Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su nói rất nhiều về Chúa Cha, về Chúa Thánh Thần và khẳng định Chúa Giê-su và Chúa Cha là một, nhưng chưa một lần nào Chúa Giê-su cùng lúc minh nhiên nói đến Mầu Nhiệm Ba Ngôi. Trong câu kết Tin Mừng Mát-thêu có nhắc tới một lệnh truyền của Chúa Giê-su nhắc đến Ba Ngôi cách đầy đủ “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” Mt 28,19. Thật ra, câu này chỉ tìm thấy trong bản dịch Latinh Vulgata do thánh Giê-rô-ni-mô dịch, còn trong các bản A-ram, Híp-ri và Hi-lạp thì không thấy, nên không loại trừ có thể là do thánh Giê-rô-ni-mô giảng thêm vào, và người ta đã tìm thấy khá nhiều chỗ đúng là thánh nhân có thêm vào thật, giống như phần nói về dấu lạ ngôn sứ Giona. Các bản Thánh Kinh khác chỉ nói “Giona nên điềm cho Ninive thế nào, thì Con Người cũng nên dấu lạ cho dân này như vậy”, nhưng thánh Giê-rô-ni-mô giảng thêm “… Giona trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng ở trong lòng đất ba ngay ba đêm như vậy”. Điều này vô tình tạo nên tranh cãi cho người đời sau là không biết Chúa Giê-su chết ba ngày sống lại hay là ngày thứ ba sống lại nữa? Thật ra, ngay đến thời thánh Phao-lô, việc làm phép rửa cũng chỉ nhân danh Chúa Giê-su, và Mầu Nhiệm Ba Ngôi thực sự là một tiến triển thần học qua các thế kỷ đầu, và đã không ít các nghị phụ đã rơi vào các lạc thuyết như Dưỡng Tử Thuyết Adoptianisme, Ảo Thân Thuyết Docétisme, Nhất Chủ Thuyết Monarchianisme, Khổ Phụ Thuyết Patripassionisme… Đến thời Kinh Viện, thánh Thomas d’Aquin đưa ra những từ ngữ giải thích như “nhiệm xuất”, “nhiệm xuy”… nhưng cũng chỉ là những từ ngữ để gọi mà thôi “Chúa Cha nhiệm xuất ra Chúa Con và nhiệm xuy ra Thánh Thần…”. Và cho đến hôm nay, người ta vẫn tìm cách đưa ra những ví dụ để giải thích về Ba Ngôi, như là Ngọn đèn, ánh sáng và sức nóng cả ba trong một ngọn đèn; một tam giác đều ba cạch ba góc bằng nhau; trong một ngón tay có ba đốt; ba vòng tròn đan kết vào nhau… Tất cả chỉ là loại suy khập khiễng, vì mỗi Ngôi Vị tự hữu và đồng bản thể quyền năng, chứ không phải tắt ngọn đèn thì lửa mất, lấy đi một cạnh thì không còn tam giác, ba đốt tay đốt dài đốt ngắn… Tắt một lời, nếu suy thấu được thì không còn là mầu nhiệm. Chúng ta vẫn còn nhớ giai thoại về thánh Augustino Một hôm ngài đi dạo trên bờ biển để suy tư về Mầu Nhiệm Ba Ngôi thì gặp một cậu bé đang dùng cái vỏ sò múc nước đổ vào cái hang con còng. Thánh nhân hỏi thằng bé làm cái gì thế? Nó bảo nó đang muốn múc hết nước biển cho cạn mà đổ vào hang còng. Thánh Augustino đã cười chê cậu bé làm cái việc vô lý, làm sao mà đổ hết nước cả đại dương bao la vào trong cái lỗ bé tí kia. Đứa bé nói với thánh Augustino rằng “Tôi đổ hết nước biển vào cái hang còng còn dễ hơn việc ông dùng cái trí hữu hạn của ông mà tìm hiểu về Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi”. Như vậy, như đã nói ở đầu lễ, chúng ta không thể dùng cái trí óc hữu hạn bất toàn để suy tư về Mầu Nhiệm chí minh chí thiện Ba Ngôi được, mà chỉ biết được mầu nhiệm Ba Ngôi bằng chính cảm nghiệm mà thôi. Cảm nghiệm Ba Ngôi hiện diện trên con người ta Chúa Cha sinh ra ta, Chúa Con cứu độ ta và Chúa Thánh Thần ban sức mạnh để đổi mới ta; cảm nghiệm Ba Ngôi trong cuộc đời; cảm nghiệm Ba Ngôi trong lịch sử… Đặc biệt, chúng ta sống mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa trong tương quan hiện hữu và tình yêu. Người Việt chúng ta có cách loại suy phần nào dễ nắm bắt hơn một chút Một anh chàng thanh niên không ai gọi anh là cha, nhưng lúc đứa con anh ta vừa chào đời, thì ngay tức khắc anh trở thành cha. Con và cha cùng một lúc. Và muốn yêu thì phải có đối tượng để yêu, nên cùng lúc anh là cha và con anh vừa sinh ra, cũng phát sinh tình yêu giữa cha và con loại suy này khiếm khuyết ở chỗ tình yêu không là một bản thể. Thiên Chúa được gọi là Cha ngay lúc Ngài sinh ra Chúa Con, và tình yêu Cha – Con đó chính là Thánh Thần. Chúng ta có thể cảm nghiệm mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi dựa trên sự hiện hữu Thiên Chúa có hai sự hiện hữu là Hiện Hữu Tự Thân ase in và Hiện Hữu Hướng Về ase ad. Hiện hữu tự thân, nghĩa là Thiên Chúa tự hiện hữu mà không cần đến bất cứ sự hỗ trợ nào, là Ta Có, Ta là Ta, Ta Là, Đấng Hiện Hữu… Từng Ngôi Vị độc lập hiện hữu. Sự hiện hữu này con người không có, mà chỉ có hiện hữu lệ thuộc. Con người hiện hữu là nhờ Thiên Chúa. Hiện hữu hướng về. Ba Ngôi Thiên Chúa hướng về nhau đến độ trở nên duy nhất; Ba Ngôi Thiên Chúa hướng đến con người trong sáng tạo, cứu độ và canh tân. Hướng về nhau đến độ duy nhất là 1, nhưng hướng về con người trong công trình của Ba Ngôi thành 3. Như vậy, chúng ta có thể sống Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi dựa trên sự hiện hữu hướng về. Chúng ta hướng về Chúa để nên một với Ngài, nhưng cũng cùng với Chúa hướng đến tha nhân trong tình yêu thương đồng loại. Amen. NĂM A I. ĐỌC TIN MỪNG Ga 3,16-18 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. II. SUY NIỆM “ƠN CỨU ĐỘ ĐƯỢC THỰC HIỆN NHỜ TƯƠNG GIAO TÌNH YÊU CỦA BA NGÔI THIÊN CHÚA” Chúa Nhật sau Lễ Hiện Xuống được chọn để mừng Lễ Chúa Ba Ngôi đã được cử hành vào thế kỷ thứ VII. Lễ kính Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chiếm một chỗ xác định trong lịch phụng vụ, cuộc cử hành nầy dần dần được xem như một ngày lễ đặc biệt. Kể từ thế kỷ thứ X, có khá nhiều nhà thờ cử hành thánh lễ nầy một cách long trọng. Vào năm 1334, Đức Giáo Hoàng Gioan XXII chuẩn nhận việc cử hành nầy ở Rô-ma và mở rộng đến Giáo hội hoàn vũ. Bài Tin Mừng hôm nay nói lên Ơn Cứu Độ được thực hiện nhờ tương giao tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa Với đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu khẳng định ba điều – Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một. – Thiên Chúa sai Con của Người đến không phải để lên án nhưng là để cứu độ thế gian. – Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án. 1. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Trong cách nhìn nhân loại, ai trong chúng ta nếu chỉ có một đứa con trai duy nhất, thì chúng ta sẽ coi nó như là tất cả của đời mình, của cả cuộc sống mình, của cả giống nòi mình, nên chúng ta sẽ hết sức cung phụng nâng niu, bằng mọi giá phải bảo vệ nó, và chỉ chấp nhận san sẻ khi cho đứa con xây dựng gia đình với một người con gái để duy trì dòng tộc. Trong mầu nhiệm Thiên Chúa, Chúa Cha đã đản sinh ra Chúa Con, và Chúa Con là đứa Con Duy Nhất của Chúa Cha từ đời đời. Nhiều lần Chúa Giêsu trong lời cầu nguyện đã thân thưa rằng Con yêu Cha và như Cha đã yêu Con… Và vì yêu thương con người, Chúa Cha đã cho đứa Con Duy Nhất của mình đến với thế gian Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua hành vi tự hiến của Thiên Chúa Cha “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Ga 3,16a. Từ “đến nỗi” ở đây cho thấy Thiên Chúa yêu đến tột cùng, yêu “đến nỗi” không còn gì để diễn tả, để trao ban hơn được nữa, vì thế chỉ còn cách duy nhất là trao ban chính Con của mình đến để diễn tả tình yêu cho nhân loại bằng chính cái chết mà thôi. Nơi cái chết của Đức Giêsu – Con Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Người đã ban và sai Con của Người đến vì yêu thương toàn thể nhân loại, để họ được cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có một cường độ và mộtchiều kích to lớn đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta phải nói Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương chúng ta, hơn chính Con của Người. Người không bỏ mặc thế gian, mà lại còn ban cho chúng ta món quà là Người Con vẫn sống trong một tương quan duy nhất với Người. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con yêu dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu này của Thiên Chúa mới có thể thực sự đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn mở ra với ánh sáng và sức nóng của Người. Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của chúng ta. Nhưng, tại sao Thiên Chúa yêu thế gian lại trao ban Con Một đến để chịu chết mà cứu độ? Bởi vì tình yêu cần đến sự ở với nhau, cần chính thân thể của nhau và trao ban cho nhau, nhất là dám chết cho người mình yêu. Nếu Chúa Giêsu ở trên trời nói vọng xuống rằng “Thiên Chúa yêu con người” thì liệu con người có cảm nhận được tình yêu không? Nhưng chắc chắn họ sẽ cảm nhận được tình yêu khi Con Một Thiên Chúa đến ở với con người, hi sinh để cứu con người và trao ban chính mình cho họ. Lại nữa, loài người đã phạm tội xúc phạm đến Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối nên tự loài người không thể tự đền được sự xúc phạm này cách cân xứng, nên cần tới Đấng là Con Thiên Chúa tuyệt đối thánh thiện mới có thể đền thay cách tương xứng. Giống như dân đen xúc phạm đến vua thì mang tội chết, phải cần đến thái tử của vua mới có khả năng xin phụ hoàng tha thứ cho người mà thái tử yêu được. Tình yêu chân chính là mong sao người mình yêu được hạnh phúc hơn cả bản thân mình. Thật vậy, Thiên Chúa yêu thế gian cách tuyệt đối và mong sao cho chúng ta được hưởng niềm hạnh phúc tuyệt đối là được vào ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” Ga 3,17. 2. Thiên Chúa sai Con của Người đến không phải để lên án nhưng là để cứu độ thế gian. “Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Thật vậy, sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian. Đó là niềm hy vọng lớn lao của nhân loại. Người tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, hay người dân đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang… là điều dễ chấp nhận; đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể trời đất lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng con người. Chỉ vì quá đỗi yêu thương loài người, Thiên Chúa mới có thể hy sinh đến thế. Đức Kitô đã đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là Thẩm Phán Người dẫn đưa con người đến “sự sống đời đời.” Sự sống đời đời, theo Tin Mừng Gioan, không chỉ là cuộc sống tương lai của một thế giới sắp đến, nhưng còn dự phần vào cuộc sống Thiên Chúa ngay từ thế giới hiện nay. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình” Ga 15,13 và không có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ý định Thiên Chúa cứu độ con người không thể nào được thực hiện nếu không có sự đồng thuận của con người; họ phải chọn lựa, “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi.” Mục tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian không phải để lên án, nhưng để cứu độ. Thế nhưng, dù điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Người đến cũng nhất thiết đưa loài người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với Con Một Thiên Chúa bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người. 3. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án. Thiên Chúa đã khởi xướng trước, Người đã “yêu thương đầu tiên”. Mọi sáng kiến đến từ phía Người. Nhưng để có tình yêu, nếu chỉ có lời tuyên bố, bày tỏ, trước những bước, dấu chỉ từ một trong hai phía chưa đủ mà phải có sự tương ứng, đón nhận và đáp trả. Đức tin là lời đáp lại của con người đối với lời tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó chúng ta sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong ngày sau hết. Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa. Cái được mất của đức tin ấy vô cùng quan trọng vấn đề là chết hay sống “Ai tin thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Hoặc người ta chấp nhận “sự ban cho của Thiên Chúa” và đi đến sự sống muôn đời là đặc tính của Thiên Chúa, hoặc người ta ở lại với nhân tính của mình và dĩ nhiên là phải chết. Không thể có thái độ nghiêng ngả quanh co. Phải nói “có” hoặc “không” trước sự ban cho của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cho thấy rằng đức tin phải dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi sai phái Con của Người đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên Chúa và lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc sống chúng ta, đưa đến sự sống đích thực không qua đi. Mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa. Nghĩa là hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô được rửa tội “bằng lửa”. Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể rửa tội “bằng máu”. Tóm lại, khi kính nhớ và cung chiêm mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi, là chúng ta chiêm ngắm Tình Yêu của Thiên Chúa ban xuống cho thế gian chính Con Một để cứu độ thế gian, và ai muốn được cứu độ phải tin vào Chúa Giêsu Kitô. Lạy Chúa Giêsu, Chúa được sai đến thế gian là để cứu độ thế gian chứ không phải lên án thế gian. Xin cũng sai chúng con đến với mọi người, đem đến cho họ sự cứu vớt, chứ không phải đến để lên án nhau. Amen. Hiền Lâm NĂM B I. ĐỌC TIN MỪNG Mt 28,16-20 Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giê-su đến gần, nói với các ông “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” II. SUY NIỆM “HÃY ĐI LÀM CHO MUÔN DÂN TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ” Bài Tin Mừng về Lễ Chúa Ba Ngôi năm B hôm nay là trích đoạn của thánh Mát-thêu về lệnh truyền của Chúa Giêsu Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Lời hứa Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. 1. Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ Cũng như Chúa Giêsu đã quy tụ môn đệ, để cùng sống với nhau và với Người; coi nhau như bạn hữu, đồng bàn với nhau, hiểu biết và chia sẻ với nhau đời sống hằng ngày. Thì đây, Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ đồng hành trước cả việc rao giảng Cần có việc chia sẻ giữa những con người với nhau trước, sau đó mới tính đến việc loan báo Tin Mừng. Rao giảng Tin Mừng cho ai là giúp người ấy đào sâu những kinh nghiệm bản thân đã trải qua trong quá khứ, cho đến ngày người ấy nhận ra nơi Chúa Kitô, trong cái chết và sự sống lại của Người, là chân lý làm cho cuộc đời họ rực sáng x. GKPV. Cùng với các môn đệ Chúa Giêsu, mọi người cũng được mời gọi sống sứ vụ rao giảng Tin Mừng bằng đời sống thanh bần đơn sơ phó thác, xây dựng sự hợp nhất bình an và làm cho Nước Chúa được lớn mạnh ngay trên quê hương trần thế, cách riêng, niềm tin, bác ái, hoan lạc và bình an thắm đầy trên giáo xứ và cộng đoàn. 2. Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Nếu đem đối chiếu các trình thuật về làm phép rửa trong sách Tông Đồ Công Vụ x. Cv 19,5… và các thư thánh Phaolô, có thể chúng ta không dám chắc là đã có một công thức đầy đủ về việc làm phép rửa nhân danh Ba Ngôi như tường thuật Tin Mừng Mát-thêu, bởi ban đầu các tông đồ và môn đệ vẫn làm phép rửa nhân danh Chúa Giêsu, còn việc nhân danh Ba Ngôi là sự tiến triển của thần học do Chúa Thánh Thần linh hứng về sau. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là khi muốn làm môn đệ Chúa Giêsu gia nhập đạo thì phải lãnh phép rửa. Phép rửa trở thành một điều kiện bắt buộc để được hưởng ơn cứu độ, vì qua Phép Rửa, tín hữu được tái sinh trong Chúa Giêsu Kitô tử nạn và phục sinh. Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô được rửa tội “bằng lửa”. Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận Bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể rửa tội “bằng máu”. Tóm lại, phải qua phép rửa mới được cứu độ dù là minh nhiên hay mặc nhiên. 3. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Những huấn lệnh của Chúa Giêsu chiếm vị thế hàng đầu và trải dài trong Tin Mừng thánh Mát-thêu, được phân bố trong năm bài diễn từ. Và giờ đây, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải dạy cho muôn dân tuân giữ mọi điều mà Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ biết. Như thế, sau khi bước theo Chúa và chịu phép rửa rồi, Kitô hữu không phải nhận phép rửa gia nhập đạo rồi để đó, mà là phải tuân giữ lề luật của Chúa. Theo đạo thì phải giữ đạo và sống đạo, chứ không phải mang trên mình cái danh Kitô hữu vì đã chịu phép rửa tội, mà sống như kẻ xa lạ. 4. Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta lại một lần nữa nghe xác quyết điều mà danh xưng Emmanuel diễn đạt Mt 1,23. Nghĩa là khởi đầu Tin Mừng, thánh sử Mát-thêu trích dẫn lời ngôn sứ Isaia “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, thì nay, lời Chúa Giêsu hứa và cũng làm cho ứng nghiệm “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” Mt 28,20b. Thầy ở lại với anh em, nghĩa là sau khi Phục Sinh, trong một cách thế hiện diện mới, Chúa Giê-su không còn bị giới hạn trong không gian hay thời gian nữa, mà ở trong niềm tin, lòng mến và sự trông cậy của các Tông Đồ Rao giảng một niềm tin duy nhất vào Chúa Giê-su Ki-tô, đặt tình yêu duy nhất vào Chúa Giê-su Ki-tô và đặt tất cả niềm hi vọng vào Chúa Giê-su Ki-tô; bởi, “chính nhờ Người, với Người và trong Người, và mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời”. Từ đây, mỗi khi làm dấu thánh giá, Ki-tô hữu tuyên xưng sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong chính mình. Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn hiệp nhất với nhau trong cùng một đức tin và một lòng mến, như Chúa luôn hiệp nhất trong Chúa Cha nhờ Thánh Thần Tình Yêu. Amen. Hiền Lâm NĂM C I. ĐỌC TIN MỪNG Ga 16,12-15 Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. II. SUY NIỆM “MẶC KHẢI TIỆM TIẾN” Đã hơn hai ngàn năm nay, nhiều học giả đã cố gắng đưa ra những ví dụ để giải thích như ngọn đèn, ánh sáng và sức nóng cùng trong một cái đèn; ba cạnh ba góc bằng nhau trong một tam giác đều; ba đốt trong một ngón tay… nhưng tất cả chỉ là loại suy khập khiễng. Bởi vì đi tìm hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì cũng như một đứa trẻ dùng cái vỏ sò múc nước biển đổ vào một cái hang con còng với hi vọng làm cạn nước biển x. Giai thoại của thánh Augustino. Tuy nhiên, dù Ba Ngôi Thiên Chúa vô thủy vô chung, nhưng từng bước mặc khải cho con người hữu hạn trong thời gian cách tiệm tiến. Chúa Giê-su là mặc khải tròn đầy về Thiên Chúa, nhưng để mạc khải được hiểu cách viên mãn thì Chúa Thánh Thần đến sẽ soi sáng cho chúng ta trong lịch sử cứu độ và lịch sử thế giới tiến dần về chung cục. Đó là nội dung của Lời Chúa trong Tin Mừng ngày lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay Thánh Pachomio tổ phụ dòng đan tu ở Tây Phương nói rằng “Anh em không thể bắt con bò chưa đến tuổi mang ách và cày bừa thành thạo theo ý anh em được. Cũng thế, anh em không thể bắt một người vừa mới tập nhân đức phải nên hoàn thiện ngay được”. Hôm nay Chúa Giê-su nói với các môn đệ “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Nghĩa là, dù tình thương của Chúa Giê-su muốn trao ban tất cả những gì Người có cho các môn đệ, nhưng với khả năng, sức lực, tâm hồn và trí khôn của các môn đệ còn giới hạn trước những thực tại thiêng liêng. Chính vì thế, Chúa Thánh Thần đến, tiếp tục huấn luyện và khai mở dần dần cho các môn đệ và những người kế tục các ngài. Một cách nào đó, giống như phương pháp sư phạm được áp dụng. Tùy từng cấp độ hiểu biết mà truyền thụ cách tiệm tiến, chứ không được “đốt giai đoạn”. Giáo lý cũng phải trải qua các giai đoạn sơ cấp – căn bản – vào đời…. Lại nữa, mặc khải là bởi Thiên Chúa chứ không phải tự trí khôn con người có thể tri thức được, nhưng nhờ ơn Chúa Thánh Thần soi sáng cho trí khôn lãnh hội được dễ dàng hơn các mặc khải, cũng như Chúa Thánh Thần tác động để tâm hồn cảm nghiệm được các chiều kích của mầu nhiệm Thiên Chúa. Tuy nhiên, không phải Chúa Thánh Thần đến đem thêm một mặc khải hay một chân lý mới – vì Chúa Giê-su đã là mặc khải tròn đầy về Thiên Chúa – nhưng như lời Chúa Giê-su nói “Thánh Thần sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Cha có, đều là của Thầy. Vì thế Thầy đã nói Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” Ga 16,14-15. Nghĩa là Chúa Thánh Thần làm cho tín hữu càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa hơn, và trải qua thời gian, ngày càng khám phá ra nhiều điều mới mẻ từ nơi Thiên Chúa, mà ngay từ buổi đầu các môn đệ chưa thấu hiểu hết được. Chân lý về Thiên Chúa chỉ là một, nhưng mọi chiều kích dài rộng cao sâu và khôn dò khôn thấu chỉ được hiểu biết trải qua từng thời đại, tùy ơn Chúa Thánh Thần ban cho. Đó là vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội. Mầu nhiệm về Thiên Chúa được mặc khải cho con người tùy theo khả năng Chúa Thánh Thần ban cho, và mầu nhiệm đó được thấu tỏ qua thời gian để Giáo hội càng thêm phong phú… Nhờ mặc khải của Chúa Giê-su và ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, chúng ta tin nhận sự hiện hữu của Ba Ngôi trong một Thiên Chúa duy nhất, đồng bản thể và quyền năng, nhưng thể hiện trong thời gian của sáng tạo, cứu độ và thánh hóa hoàn vũ. Ba Ngôi Thiên Chúa có sự hiện hữu “tự thân”, nghĩa là Thiên Chúa tự hiện hữu mà không lệ thuộc bất cứ ngoại cảnh nào, tự có và không thể mất đi. Ba Ngôi Thiên Chúa còn có sự hiện hữu “hướng về”, nghĩa là Ba Ngôi hướng về nhau đến độ trở nên duy nhất. Con người và mọi sinh linh không có sự hiện hữu tự thân, mà chỉ có sự hiện hữu lệ thuộc, hiện hữu hướng về Thiên Chúa. Và chỉ trong Chúa chúng ta mới hiện hữu. Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần ngự đến ban cho chúng con trí khôn ngoan và sức mạnh, để chúng con đủ sức đón nhận và thông hiểu mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa, hầu chúng con thêm lòng mộ mến Chúa và rao giảng cho những ai chưa nhận biết Người. Amen Hiền Lâm
Bài mớiThông Báo Phong Chức Phó Tế Khoá 18 Giáo Phận Phú Cường 12/06/2023CĂNG THẲNG - Chúa Nhật Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu - Năm A Mt 1125-30 Từ ngữ Kinh Thánh 12/06/2023Thánh Lễ Tạ Ơn Và Vĩnh Khấn Của Các Nữ Tu Thuộc Hội Dòng Con Đức Mẹ Phú Cường 12/06/2023Lễ Tổng Kết Năm Đào Tạo 2022-2023 Của Cơ Sở Đào Tạo Linh Mục Giáo Phận Phú Cường 12/06/2023Đan Viện Cát Minh Phú Cường Mừng Lễ Tuyên Khấn Trọng Thể Của Đan Nữ Marie Cecile Chúa Giêsu Nguyễn Thị Lam 12/06/2023Hội Dòng Mẹ Nhân Ái Khấn Dòng 12/06/2023
suy niệm lễ chúa ba ngôi năm c